Tài liệu hướng dẫn phân tích Hạnh phúc của một tang gia gồm những gợi ý chi tiết cách làm, lập dàn ý, sơ đồ tư duy cùng #4 bài văn hay phân tích nội dung trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Hướng dẫn phân tích Hạnh phúc của một tang gia
Đề bài: Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trong tác phẩm Số đỏ của Vũ trọng Phụng.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu của đề bài: phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : các từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
– Phương pháp lập luận chính : phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”
– Luận điểm 2: Niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi cụ tổ mất
– Luận điểm 3: Cảnh đám tang gương mẫu.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả Vũ Trọng Phụng
+ Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) là nhà văn xuất sắc trong nền văn học của Việt Nam nổi tiếng với các tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn trào phúng.
– Giới thiệu tác phẩm Số đỏ và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
+ Số đỏ là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng nhằm châm biếm, đả kích những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX.
+ Hạnh phúc của một tang gia là toàn bộ chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, phê phán lối sống lệch lạc và đua đòi của một gia đình.
b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm Số đỏ
– Hoàn cảnh ra đời :
+ Số đỏ ra đời năm 1936, năm đầu của Mặt trận dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi. Chế độ kiểm duyệt sách báo khắt khe của chính quyền thực dân tạm thời được bãi bỏ. Bối cảnh ấy đã tạo điều kiện cho các nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất thối nát, giả dối, bịp bợm của các phong trào Âu hóa, thể thao, vui vẻ trẻ trung… được bọn thống trị khuyến khích và lợi dụng đã từng lên cơn sốt vào những năm 30 của thế kỷ XX.
* Ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”
– “Tang gia”: gia đình có người mất, có tang.
– “Hạnh phúc”: cảm xúc khi gặp chuyện vui.
-> Nhan đề chứa đựng mâu thuẫn: Một bên là sự tang thương, mất mát đáng lẽ phải tràn ngập sự đau buồn, tiếc thương nhưng ở đây lại song hành với hạnh phúc, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”.
=> Nhan đề xuất hiện như một sự châm biếm, mỉa mai, dự báo một màn hài kịch sắp diễn ra với nhiều nghịch lí và những tiếng cười chua chát.
* Niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi cụ tổ mất
– Niềm vui chung của cả gia đình
+ Cụ Tổ mất đi, di chúc được thực thi.
+ Ước nguyện của mọi người trong gia đình được thực hiện.
-> Gia đình tràn ngập niềm vui vì được chia tài sản.
=> Một gia đình bất hiếu.
– Niềm vui của từng thành viên trong gia đình
+ Cụ cố Hồng
- Được diễn trò già yếu trước mọi người.
- Mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc, mếu máo để người ta nghĩ “úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”.
-> Nhân vật điển hình cho sự ngu dốt và háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình.
+ Ông Văn Minh:
- Thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành -> được chia tài sản
- Được dịp quảng cáo, kiếm tiền
-> Người cháu bất hiếu, đầy dã tâm.
+ Bà Văn Minh:
- Mừng rỡ vì được lăng xê bộ xô gai tân thời và những y phục táo tạo nhất của tiệm may Âu hóa.
-> Người cháu thực dụng, thiếu tình người.
+ Cô Tuyết:
- Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết
-> Người con gái lẳng lơ, muốn hư hỏng một cách có khoa học, tự hào chưa đánh mất cả chữ trinh.
+ Cậu Tú Tân:
- Sướng điên người lên vì được dịp khoe tài chụp ảnh, được sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến
-> Con người vô tâm, kém hiểu biết, đáng lên án.
+ Ông Phán mọc sừng :
- Sung sướng vì không ngờ rằng “cái sừng” trên đầu mình lại có giá trị.
- Mừng thầm vì được chia thêm tiền
-> Một kẻ trục lợi, vô lương tâm, không có nhân cách, vô liêm sỉ, chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản.
– Niềm vui của những người ngoài gia đình
+ Xuân tóc đỏ: danh giá uy tín ngày càng cao vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết.
+ Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “sung sướng cực điểm” vì có việc làm.
+ Bạn bè cụ cố Hồng: có dịp khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương một cách lố bịch, kệch cỡm.
+ Đám trai thanh gái lịch: có dịp hẹn hò tình tứ, “chim chuột nhau” -> sự giả tạo, thiếu văn hóa.
+ Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng vênh váo”
+ Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang…
-> Cụ Tổ chết tuyệt nhiên không ai đau buồn, không một giọt nước mắt.
=> Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, mỉa mai, châm biếm và lên án sự suy đồi về đạo đức và tình người của con người trong xã hội thượng lưu phong kiến.
* Cảnh đám tang gương mẫu
– Không khí đám tang:
+ Hỗn loạn, nhốn nháo như hội rước
+ Tổ chức linh đình kết hợp ta, Tàu, Tây để khoe giàu một cách hợm hĩnh.
-> Đua đòi, chạy theo lối sống văn minh rởm.
– Các nhân vật trong đám tang:
+ Phục trang:
- Các bà, các cô thi nhau mặc đồ xô gai tân thời
- Cô Tuyết mặc y phục ngây thơ bằng ren, hở nách
-> Đám đưa ma mà như một sàn diễn thời trang.
+ Xuân tóc đỏ lại được chào đón trịnh trọng vì đã có công khiến cụ Tổ chết
+ Cậu Tú Tân thể hiện trình độ chụp ảnh bằng cách nhảy lên những ngôi mộ khác.
+ Sư cụ Tăng Phú vênh váo vì sẽ có người nghĩ cụ có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.
+ Đám con cháu là ê kíp đạo diễn, diễn viên, nhiếp ảnh tài ba.
+ “Đám cứ đi” và nam nữ cứ “chim nhau, cười tình với nhau”.
– Cảnh hạ huyệt:
+ Cậu Tú Tân thì dàn dựng việc chụp hình một cách giả dối và vô văn hóa
+ Cụ cố Hồng cũng ho, khóc, mếu, khạc…
+ Ông Phán thì oặt người, khóc ngất đi “Hứt, hứt, hứt” nhưng không quên diễn việc làm ăn bí mật với Xuân: dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư.
=> Đó là một màn hài kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại, bất hiếu, bất nghĩa của xã hội thượng lưu trước 1945 thực chất là cặn bã của xã hội.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Ngòi bút trào phúng bậc thầy
– Xây dựng tình huống độc đáo
– Phát hiện những chi tiết đối lập gây gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự việc.
– Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,…
– Nghệ thuật miêu tả nhân vật biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết.
c) Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung của đoạn trích.
– Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.
4. Sơ đồ tư duy phân tích Hạnh phúc của một tang gia
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Hạnh phúc của một tang gia
5. Kiến thức mở rộng
– Một số ý kiến đánh giá về tác phẩm Số đỏ:
“Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương thời. Tác giả đã đả kích cay độc các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “giải phóng nữ quyền” đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh “văn minh”, “tiến bộ”, “cải cách xã hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp trắng trợn lên mọi nền nếp đạo đức truyền thống… Số đỏ tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản về phương diện đạo đức, sinh hoạt – đây là một hạn chế – song tác phẩm vẫn có màu sắc chính trị thời sự và có tính chiến đấu rõ rệt… Tuy nhiên, sự phản ánh hiện thực của Số đỏ có rộng song chưa thật sâu. Trong khi lật mặt bọn bịp bợm giả danh “bình dân”, ít nhiều nhà văn vẫn để lộ cái nhìn miệt thị đối với quần chúng lao động. Quan điểm sinh lý thô bạo – ảnh hưởng của học thuyết Phrơt – khi giải thích “cái dâm của loài người” và sự miêu tả có phần sống sượng đây đó, cũng hạn chế chiều sâu nhận thức và sức tố cáo của tác phẩm.”
(Từ điển văn học, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, tập II, 1984)
Top 3 bài văn hay phân tích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia bài số 1:
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế kỉ XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.
Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!
Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…
Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quàn… Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát! Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia bài số 2:
“Số đỏ” là tiểu thuyết đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, cũng là tác phẩm có giá trị bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm này, thông qua việc xây dựng tình huống “cười ra nước mắt” tác giả đã vạch trần bản chất thối nát, lố lăng của tầng lớp địa chủ, đại tư sản, qua đó là tiếng khóc đầy xót xa cho sự suy đồi của những giá trị đạo đức tốt đẹp. Chương XV của tác phẩm – Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích tiêu biểu cho cảm hứng trào phúng, phê phán này. Nhận xét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cũng như tiểu thuyết “Số đỏ”, có ý kiến cho rằng “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng như một tấn trò đời của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát”.
“Tấn trò đời” là tác phẩm tập hợp 97 tiểu thuyết đặc sắc của “bậc thầy chủ nghĩa hiện thực” Balzac. Qua Tấn trò đời là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Pháp trong những năm nửa đầu thế kỉ XIX. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến với sự suy đồi của giai cấp địa chủ đại tư sản. Chính sự tương đồng trong nội dung phản ánh đã gợi liên tưởng “Số đỏ” của Việt Nam chính là “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.
“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, đoạn trích nói về đám tang của cụ cố Tổ. Thông qua những tình huống hài hước, tác giả Vũ Trọng Phụng đã vạch trần cái lố lăng của các nhân vật trong câu chuyện. Bút pháp trào phúng quen thuộc đã thể hiện ấn tượng về niềm vui sướng, hạnh phúc của những thành viên trong gia đình cố Hồng trước sự ra đi của cụ cố Tổ.
Ngay tên của đoạn trích đã thể hiện được cái bi hài kịch trong gia đình đại tư sản danh giá “hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thăng hoa, vui sướng khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống, còn “tang gia” lại chỉ gia đình có tang, gắn với sự mất mát về tình cảm. Theo lẽ thường, một gia đình có tang thì không khí bao trùm sẽ là nỗi đau thương, sự mất mát về người và tình cảm. Nhưng đám tang của cụ cố Tổ lại thật lạ lùng, bởi đám tang tuy có sự mất mát về người nhưng lại có thể mang đến hạnh phúc, sự thỏa mãn cho tất cả các thành viên trong gia đình và ngoài gia đình.
Cố Hồng – con trai của cụ cố Tổ cảm thấy vui sướng vì được mặc áo xô gai, chống gậy “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy…”. Trong suốt đám tang, cố Hồng luôn tỏ ra già yếu, lẩn thẩn cùng câu nói cửa miệng quen thuộc “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Niềm vui sướng của nhân vật này khi cha của mình mất chính là muốn nghe lời trầm trồ, tán thưởng của mọi người trong khu phố, muốn phô ra cái phúc của một gia đình đại tư sản, rằng con trai già bố mới mất. Vợ chồng Văn Minh là con cả của Cố Hồng, theo lẽ thường cần đứng ra lo chu toàn ma chay cho ông nhưng vấn đề mà vợ chồng Văn Minh quan tâm lại là việc thừa kế “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành” và việc nên hay không nên cưới chạy tang cho cô Tuyết.
Phán Mọc Sừng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc vì được thêm một số tiền kha khá, cậu Tú Tân cảm thấy hạnh phúc vì được chụp ảnh “sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Cô Tuyết diện lên mình bộ trang phục ngây thơ không phù hợp bối cảnh. Mọi cái lố lăng, rởm đời được phô bày một cách rõ nét mang đến tấn bi hài cười ra nước mắt.
Qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, tác giả Vũ Trọng Phụng đã lên án gay gắt xã hội thực dân nửa phong kiến với phong trào Âu Hóa đầy lố lăng, nơi những giá trị đạo đức bị coi nhẹ, chà đạp để trở thành thứ bi hài trong cuộc sống. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã mỉa mai, chễ giễu đầy sâu cay với đám ma khác đời, có một không hai này “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.
Số đỏ là lời lên án sâu sắc cái đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cũng là tiếng khóc xót thương cho sự ra đi của những giá trị đạo đức. “Hạnh phúc của một tang gia” là tấn bi hài cười ra nước mắt mà Vũ Trọng Phụng đã tái dựng đầy thành công.
» Xem thêm soạn bài Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) để có những cơ sở phân tích đầy đủ nhất.
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia bài số 3:
Nếu nói về những tác phẩm thuộc văn học trào phúng Việt Nam thì không thể không nhắc đến cái tên “Số đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Có lẽ chính vì một lối châm biếm sắc sảo rõ nét cũng như đã làm cho tính hấp dẫn của tác phẩm được hiện rõ và để lại những tiếng cười châm biếm sâu cay. Và đoạn trích ấn tượng “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những thành công trong toàn bộ tiểu thuyết “Số đỏ” của nhà văn được mệnh danh là “Ông vua phóng sự Bắc Kỳ” này.
Có thể thấy được điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ngay đó chính là tiêu đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Ta như nhận thấy được rằng đây chính là mâu thuẫn và nực cười của câu chuyện. Khi trong nhà có tang, tang luôn luôn đi liền với sự mất mát và đau thương nhưng ở trong đoạn trích này ta lại không hề thấy được sự đau thương đâu mà nó lại được thể hiện bằng những sự hạnh phúc, như khát khao mong chờ bấy lâu nay mới được toại nguyện.
Khi nhà có tang thì ông Phán mọc sừng lúc này lại rất thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền đó chính là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng. Và có thể thấy được chính người con trai cả – cụ cố Hồng cũng như nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy… để cho thiên hạ thấy được sự đau khổ cũng như là chỉ trỏ để khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế… Còn đối với ông Văn Minh thì ông lại như rất thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ dường như không còn là lí thuyết viển vông nữa. Còn đối với cậu Tú Tân sướng điên người lên, vì chỉ nó lúc này thì ông mới có dịp thi thố tài chụp ảnh. Ngoài ra thì bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê những kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa của mình và giờ đây cuối cùng được như ý. Còn cô Tuyết lại lại như thêm vui mừng khi lại có dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng manh kia như để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Và dường như tất cả hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó giấu diếm.
Chính những sự hấp dẫn của đoạn trích nhưng lại còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết ta như thấy được nó nằm ngay trong nhan đề của chương đó là “Hạnh phúc của một tang gia”. Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều như đã thấy đây chính là một dịp may, mà lại còn là dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình. Có lẽ chính vì vậy mà cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm… Chính cái bọn con cháu vô tâm ai ai dường như cũng đã sung sướng thỏa thích… Người ta như thật tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, và cả cảnh gọi phường kèn, thuê xe đám ma,…
Tuyệt nhiên, trong đám tang đó không có một ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Ông Văn Minh như lại còn thầm biết ơn khi Xuân tóc đỏ đã vô tình làm cho cái chết của cụ cố Hồng đến nhanh hơn, tất cả nhà ai ai cũng háo hức để đón chờ ngày đưa tang, ngày mà cụ cố Hồng chết.
Tiếp theo đó chính là cảnh đám tang. Cảnh đám tang như cũng đã đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm quả thật lố lăng. Và cùng với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối cái lối sống văn minh rởm ấy. Đó dường như chính là một đám ma to tát, long trọng, và kệch cỡm như còn theo cả lối Ta, Tầu, Tây. Đám tang như có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đốì, vài ba trăm người đi đưa. Và dường như lại có cậu Tú Tân chỉ huy, hay là những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Có lẽ chính cái đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tầu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Chính bằng màn trình diễn, và cả sự quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mân trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình như chưa bị đánh mất cả chữ trinh. Và cả trong cái đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc lố bịch đó chính là có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết như cũng đã được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Quả thực đây “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu!…”
Thông qua đó ta còn như đã thấy còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó. Và không ai cả ngoài đó là những người đưa tang. Đầu tiên là những ông bạn được coi là thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang lại như chỉ để khoe huân chương, huy chương, khoe những “kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn” mà thôi chứ có thương xót gì người đã mất. Rồi những giới thượng lưu đều như cảm động khi trông thấy làn da thập thò trên cánh tay và ngực Tuyết,… Cái đám tang như là để họ có thể là trò hề, như là một dịp để họ những con người kia thỏa sức thể hiện.
Chính bằng một ngòi bút trào phúng bậc thầy, tác giả tài năng Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, như vạch mặt cả những hạng người như đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia” đặc sắc này.
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia bài số 4:
Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936)… Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông. Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.
Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”. “Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự “báo hiếu” của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúc, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.
Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân? Cụ cố Hồng – con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến. Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á – Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là một phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.
Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong cooc-sê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.
Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại giẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Hay chính ông Phán mọc sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.
Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “Âu hóa”. Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau. Thật đáng lên án thay.
Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây – ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đáng đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ ào của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau… Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”. Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.
Như vậy, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự âu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch. Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.
Các bạn vừa tham khảo gợi ý cách làm chi tiết và 4 mẫu bài văn phân tích Hạnh phúc của một tang gia do Trường TCSP Mẫu giáo – Nhà trẻ Hà Nội tổng hợp và biên soạn. Tham khảo thêm những bài văn mẫu lớp 11 khác để nâng cao kĩ năng làm văn và sử dụng vốn từ ngữ phong phú. Chúc các em làm bài tốt, đạt kết quả cao !
Hướng dẫn phân tích Hạnh phúc của một tang gia, lập dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu tham khảo phân tích nội dung đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng).