21+ Bài văn tìm hiểu bài thơ ‘Từ ấy’ của Tố Hữu hay nhất

Tố Hữu là thi sĩ cách mệnh và lí tưởng cách mệnh là nguồn cảm hứng vô tận cho những tác phẩm của ông. Cũng theo đó, “Từ ấy” chính là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng của Tố Hữu nói về niềm vui sướng sau khi giác ngộ lý tưởng cộng sản. Hãy cùng Trường THPT Phạm Hồng Thái tham khảo những bài văn tìm hiểu bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu để cảm nhận lẽ sống cao đẹp của thi sĩ ngay trong bài viết sau.

Mục lục bài viết [Ẩn]

05181302 4 05181302 4

Dàn ý tìm hiểu bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

1. Mở bài

a. Hoàn cảnh ra đời

“Từ ấy” là bài thơ đánh dấu sự khởi đầu của tuyến đường cách mệnh và sự nghiệp thi ca của Tố Hữu. Năm 1937, Tố Hữu viết bài thơ này và gia nhập Đảng vào năm 1938, khi giác ngộ lý tưởng cộng sản đã mở ra trước mắt ông. Bài thơ này cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu.

Ông viết: “Từ ấy: là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh”.

b. Nội dung

Một tâm hồn trẻ trung, đầy nhiệt huyết của người thanh niên cách mệnh, hoan hỉ và say mê mãnh liệt khi được hiểu thêm về lẽ sống và chuyển biến tâm hồn sâu xa khi gặp ánh sáng của lí tưởng cộng sản.

c. Tứ thơ

Tác phẩm bao gồm bốn câu thơ mang tên “Từ ấy” được truyền cảm hứng từ niềm tin cách mệnh của Tố Hữu tại thời khắc ông giác ngộ lí tưởng cộng sản.

2. Thân bài

a. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng

– Hai câu đầu viết theo văn pháp tự sự: “Từ ấy trong tôi…”. Theo đó, “Từ ấy” là lúc thi sĩ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời “chân lí” cách mệnh soi sáng đường đời. Đồng thời, hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ” cho nguồn nhiệt lượng cách mệnh làm bùng sáng tâm hồn thi sĩ, 

Còn hình ảnh “mặt trời chân lí” là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ này ngợi ca ánh sáng điệu kì của cách mệnh. Đây là thứ ánh sáng của tư tường cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

– Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, bỗng nhiên thoáng bay trong không gian trời cao, đầy cảm hứng lãng mạn. Cảm giác hạnh phúc và sự sung sướng tràn ngập trong tâm hồn được mô tả bằng những hình ảnh và âm thanh được lấy từ thiên nhiên: như vườn hoa lá rực rỡ, hương thơm đậm nồng, tiếng chim rộn ràng.

– Ánh sáng cách mệnh đã đưa Tố Hữu trên một tuyến đường mới, rộng mở và sáng rực cho thế cuộc anh, cũng như đưa tới một toàn cầu tình yêu cách mệnh và tình yêu đồng bào vô tận. Nhờ đó, Tố Hữu có thể sống một thế cuộc ý nghĩa và lớn lao, và cảm thấy tâm hồn thơ tươi sáng và vô tận.

b. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sông

– Hai dòng đầu: thi sĩ thể hiện quan niệm mới mẻ về ý nghĩa của cuộc sống, rằng cuộc sống thực thụ chỉ có ý nghĩa khi sự gắn bó và hài hòa giữa “cái tôi” tư nhân với “cái ta” chung của cộng đồng.

– Trong đoạn văn, việc sử dụng động từ “buộc” là một cách ẩn dụ để thể hiện sự quyết tâm kiên cường và ý thức tự nguyện sâu sắc của Tố Hữu trong việc vượt qua ranh giới giữa tư nhân và cộng đồng. thi sĩ đang tìm cách hòa nhập với mọi người và cam kết với lòng quyết tâm sắt đá rằng“Tôi buộc lòng tôi với mọi người”.

– Nhờ đó, tâm hồn thi sĩ lan tỏa tới “trăm nơi” (hoán dụ) và “trang trải” chia sẻ với những người có cùng đồng cảm, sự tình thật và tự nguyện tới sắp với họ.

– Hai dòng thơ sau thể hiện tình yêu thương đối với con người và giai cấp rõ ràng. thi sĩ quan tâm đặc biệt tới những người lao động khổ cực, và như một biện chứng “Để hồn tôi với bao hồn khổ” và từ đó thi sĩ thể hiện sức mạnh tổng hợp trong câu “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. 

Những ý tưởng tương tự cũng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, người đã trưởng thành trong thời kì chống lại xâm lược Mĩ: “Khi ta kết đoàn, quốc gia sẽ vững vàng”.

Nhìn chung, Tố Hữu đã nhấn mạnh mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống. Đặc biệt là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

c. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn thi sĩ

– Tố Hữu trước đây là một thanh niên tiểu tư sản, nhưng cách mệnh đã giúp thi sĩ vượt qua tầm nhìn hạn hẹp và tình yêu vô hạn. Ánh sáng cách mệnh được coi như “Mặt trời chân lí chói sáng qua tim” của ông.

– thi sĩ tự mình xem mình như là “con của vạn nhà” trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất, là em của “vạn kiếp phôi pha” và anh của “vạn đầu em nhỏ” “cù bất cù bơ”. Những cảm nhận đó đã truyền cảm hứng cho Tố Hữu say mê hoạt động cách mệnh và viết những tác phẩm cao đẹp, góp phần vào việc phóng thích quốc gia và phóng thích những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.

3. Kết bài

– Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và lòng hàm ân sâu sắc với cách mệnh.

– Thơ Tố Hữu rõ ràng mang tính trữ tình – chính luận, khuyến khích độc giả hướng tới tương lai sáng lạn.

– Giọng thơ của Tố Hữu rất tình thật, nồng nàn và sôi động.

– Giọng thơ tình thật, sôi nổi, nồng nàn.

– Hình ảnh trong thơ rực rỡ, tiếng nói phong phú và mang tính dân tộc cao.

05181315 2 05181315 2

Sơ đồ tư duy bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

05181325 1 05181325 1
Sơ đồ tư duy bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

Top bài văn tìm hiểu “Từ ấy” của Tố Hữu hay nhất

1. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 1

Tố Hữu (1920 – 2002) là một thi sĩ lớn của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. thế cuộc thi sĩ và đội viên của Tố Hữu luôn song hành với nhau. Trên hành trình vừa làm đội viên vừa làm thi sĩ, Tố Hữu đã có rất nhiều cột mốc quan trọng nhưng cột mốc đáng chú ý nhất là cột mốc khi giác ngộ lý tưởng Đảng vào 1937.

Ở thời khắc này, Tố Hữu đã có một bài thơ ghi lại ấn tượng của buổi đầu ấy, bài thơ có tên “Từ ấy”. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên, là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu. Bài thơ là tiếng reo vui của người thanh niên trẻ trai Tố Hữu khi được giác ngộ lý tưởng Đảng và nhận thức mới của người thanh niên ấy khi đi với cách mệnh. Tiếng reo vui của buổi đầu đi với cách mệnh được Tố Hữu thể hiện một cách rất hình ảnh và sinh động.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

………….

Không áo cơm cù bất cù bơ”.

thi sĩ Tố Hữu sinh năm 1920, thời tuổi xanh sống trong đêm trường nô lệ nhưng may mắn cho Tố Hữu là năm 1937 được giác ngộ cách mệnh, rồi 1939 được kết nạp vào Đảng. Đó là thời kỳ Tố Hữu chuyển mình từ một thanh niên học sinh sang làm một đội viên cộng sản. Tố Hữu đã ghi lại tâm trạng của thời kỳ này đó là thời kỳ thời khắc mà thi sĩ reo vui khi gặp lý tưởng Đảng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

“Từ ấy” là thời khắc người thanh niên Tố Hữu tới với cách mệnh, được giác ngộ lý tưởng Đảng. thời khắc ấy trong tâm hồn thi sĩ có một sự nồng ấm nồng nhiệt của một nhiệt huyết cách mệnh mà thi sĩ đã cảm giác như một thứ nắng hạ chói chang.

Cảm giác ấy là vì lý tưởng Đảng, ánh sáng cách mệnh như là “mặt trời chân lý” bừng sáng “chói qua tim”. Tim là nơi tụ hội của tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, ánh sáng chân lí chói qua tim là một sự sáng bừng sáng tỏ trong tình cảm, trong nhận thức của người thanh niên cách mệnh.

Sau khi được ánh sáng Đảng, lý tưởng cách mệnh như mặt trời chân lý rọi vào sáng tỏ thì thi sĩ cảm thấy tâm hồn mình như được hồi sinh.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Như ta đã biết trong bài thơ “Một nhành xuân” 1980, Tố Hữu đã tự thuật lại quãng đời trước khi gặp lý tưởng Đảng rằng:

“Tôi đã khô như cây sậy ven đường

Đâu ước làm chim thơm và trái ngọt

Tôi đã chết lặng im như con chim không bao giờ được hót

Một tiếng ca lánh lót cho đời”.

Một tâm hồn khô héo như thế này bỗng nhiên trỗi dậy hồi sinh. thi sĩ cảm thấy trong tâm hồn mình xanh tươi như “một vườn hoa lá” có hương sắc hương thơm và cả “rộn tiếng chim”. Cũng tức là tâm hồn như được sống lại, rộn rực mê say, có đủ âm thanh màu sắc.

Thật khó có hình ảnh nào ví về sự hồi sinh tâm hồn hình ảnh hơn thế, sinh động hơn thế. Bốn câu thơ mở đầu với những hình ảnh thơ mới lạ sáng tạo, thi sĩ vừa thể hiện được cảm giác reo vui khi lý tưởng Đảng soi rọi vào tâm hồn mình, khi tâm hồn mình được hồi sinh dưới ánh sáng chân lý Đảng.

Sau khi tiếp nhận lý tưởng Đảng và hồi sinh tâm hồn, người thanh niên cộng sản Tố Hữu đã có một sự thay đổi về nhận thức, đó là phải gắn bó yêu thương những người lao khổ để xiết chặt lực lượng đấu tranh, tác giả viết:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

nếu như như những thi sĩ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:

“Ta là một là riêng là thứ nhất

Không có người nào bè bạn nổi cùng ta”.

Hay như Chế Lan Viên thì nói:

“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết

Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.

Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi”.

Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó kết đoàn với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó kết đoàn chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.

Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm thi sĩ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh lực lượng đấu tranh. tương tự quan niệm về gắn bó và chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.

Khổ thơ thứ hai thi sĩ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn thi sĩ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mệnh. Sau khi diễn tả quá trình tiếp nhận ánh sáng Đảng, sự thay đổi nhận thức cuộc sống, thi sĩ đi tới nêu lên trách nhiệm của mình đối với thế cuộc đối với cách mệnh. Trách nhiệm đó được thi sĩ thể hiện rất cụ thể:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”.

Với vạn nhà thì làm con, với những kiếp phôi pha là quá khứ tổ tiên thì làm em, còn với những em nhỏ cù bất cù bơ thì làm anh. Con của mọi nhà thì phải trung hiếu với mọi nhà, em của kiếp phôi pha thì phải noi gương tiếp bước tổ tiên trong quá khứ, còn làm anh của đàn em nhỏ thì phải nâng đỡ chở che cứu rỗi cho họ.

thi sĩ nêu lên trách nhiệm của mình nhưng không phải chung chung mà rất cụ thể, rất đúng với vai trò của người thanh niên trong thời khắc thời bấy giờ. Đặc biệt ở khổ thơ này tác giả có đề cập tới hình ảnh làm anh những đàn em nhỏ cù bất cù bơ, đó cũng chính là một trách nhiệm đối với những hồn lao khổ mà tác giả đã nói ở phần thơ trên.

Bài thơ “Từ ấy” đã ghi lại một cột móc trong thế cuộc hoạt động cách mệnh của Tố Hữu. Đọc bài thơ này, người đọc cảm nhận được một Tố Hữu trong buổi đầu tới với cách mệnh đã rất nồng nhiệt tiếp nhận ánh sáng lý tưởng Đảng và có một sự thay đổi khá toàn diện về nhận thức về nhân sinh quan và toàn cầu quan.

Tuy viết về một thời khắc lịch sử, một thời khắc lịch sử hoạt động cách mệnh của mình nhưng Tố Hữu không diễn đạt một cách khô khan mang tính khẩu hiệu, mà trái lại được diễn đạt một cách sinh động qua những hình ảnh rất gợi hình gợi cảm. vì vậy một bài thơ cách mệnh những vẫn xanh tươi trong lòng người đọc.

2. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 2

Tố Hữu là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào thơ ca cách mệnh. Ông có rất nhiều những tác phẩm có trị giá không chỉ về nghệ thuật văn học mà còn mang trị giá lịch sử bởi hầu hết những tác phẩm của Tố Hữu đều gắn liền với từng chặng đường của lịch sử dân tộc. Mở đầu cho thành công của Tố Hữu chính là tập thư từ ấy (1939) với tác phẩm cùng tên đặc biệt xuất sắc và ấn tượng. Bài thơ không chỉ bộc lộ niềm hoan hỉ vui sướng của tác giả khi được bước chân vào hàng ngũ của Đảng, mà còn thể hiện sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn người đội viên cách mệnh.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim”

Trong khổ thơ trước hết niềm hoan hỉ và hạnh phúc của Tố Hữu khi được đứng chân vào hàng ngũ của Đảng được bộc lộ một cách rõ rệt, tình thật và sâu sắc. Mốc thời gian “từ ấy” là một từ phiếm chỉ đặc biệt, dù không thể hiện rõ thời gian cụ thể nhưng nó lại có ý nghĩa đánh dấu một cột mốc quan trọng trong thế cuộc của tác giả. Đó là ngày ông được chính thức bước chân vào hàng ngũ của Đảng, được đấu tranh dưới danh nghĩa của Đảng, của cách mệnh, là ngày mà thế cuộc vốn tăm tối, vô định của Tố Hữu lần nữa được chiếu sáng, soi đường. thời khắc bắt gặp ánh sáng cộng sản thế cuộc, trái tim người đội viên sáng rực một màu nắng chói chang, cái màu nắng của mùa hạ, rực rỡ, cháy bỏng, tràn đầy nhiệt huyết “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”.

Ở câu thơ thứ hai, ý thơ nhịn nhường như tiếp nối để giảng giải cho câu thơ đầu, sở dĩ lòng tác giả bừng nắng hạ, màu nắng nhiệt huyết kia là bởi một “mặt trời chân lý”. Hình ảnh này là ẩn dụ đặc sắc cho Đảng cho lý tưởng cách mệnh soi đường, với sự đúng đắn, đầy triển vọng trong bước đi của thời đại. Có thể nói rằng việc đứng vào hàng ngũ của Đảng đã mở ra cho Tố Hữu một tuyến đường mới, một cánh cửa mới đầy hy vọng, xứng đáng để người trẻ trai dành trọn cả thế cuộc và tuổi xuân. Ánh sáng cách mệnh cũng Tố Hữu thoát khỏi cảnh lạc lõng, đơn độc trên tuyến đường yêu nước, đấu tranh phóng thích dân tộc mà ông hàng hướng tới.

Cụm “chói qua tim” là một cụm từ đặc biệt mang tới cảm giác mạnh, lý tưởng cách mệnh, ánh sáng soi đường xuyên thấu trái tim người đội viên, chiếu rọi mọi góc tối của tâm hồn, xua đi màn đêm tăm tối.

Vườn tôi là một rừng hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Niềm vui sướng hạnh phúc, được bộc lộ bằng những hình ảnh thiên nhiên sống động, khi Tố Hữu sử dụng lối so sánh trừu tượng“hồn tôi” và “vườn hoa lá”, đó là sự hoan hỉ, niềm vui sướng toát ra từ tận sâu tâm hồn, tình thật và giản dị. nếu như như trước khi bước chân vào hàng ngũ của Đảng, được giác ngộ, tâm hồn Tố Hữu được ví như một khu vườn khô cằn, tăm tối, thì sau mốc thời gian “từ ấy”, khu vườn đã trở nên tràn đầy sức sống, đầy sinh khí tới từ nguồn sáng dồi dào của nắng hạ. Tâm hồn người chiến càng trở nên phong phú, rực rỡ và nhiều sắc màu. Không chỉ thế niềm vui sướng hoan hỉ ấy còn được thể hiện tiếp ở câu thơ nối dòng bên dưới “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”, có nghĩa rằng niềm hạnh phúc của Tố Hữu không chỉ ngừng ở việc tràn đầy sức sống, sinh lực dồi dào, mà nó còn là sự rộn ràng, reo vui tới từ sâu trong tâm hồn, tất cả đều ở mức cực đại, chín muồi. Niềm hạnh phúc không chỉ thầm lặng, mà nó còn được bộc lộ bằng những xúc cảm của thính giác và vị giác, phong phú, độc đáo và lãng mạn kiểu Pháp.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

tới khổ thơ thứ hai, để tiếp nối niềm hoan hỉ, hạnh phúc tới tột cùng, Tố Hữu đã thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn, càng khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa của Đảng trong quá trình soi sáng và phóng thích con người khỏi những tối tăm, bế tắc, mà trước hết là ở việc phóng thích tâm hồn, khởi nguồn cho những nhận thức mới mẻ, tươi sáng. Bản thân Tố Hữu khi được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng ở độ tuổi 18, ông đã nhanh chóng có những nhận thức mới mẻ về sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân, đồng thời cũng đã định ra cho mình một tuyến đường sáng lạn. Sự chuyển biến trong tâm hồn được thể hiện rõ khi tác giả dần chuyển từ cái tôi tư nhân, bế tắc, luôn quanh quẩn trong những nỗi hoang mang, bất định, những nỗi buồn lạc lõng khi phải “chọn lựa một dòng hay để nước trôi xuôi” sang cái “tôi” rộng mở hơn, hào sảng hơn, hướng tới một cái ta chung nhất, gây dựng khối đại kết đoàn dân tộc.

Lúc này đây, bản thân người đội viên cách mệnh đã không chỉ sống thế cuộc cho riêng mình, mà càng khát khao được sống được đấu tranh vì quốc gia, vì dân tộc với lý tưởng cách mệnh vĩ đại. Tố Hữu đã mở rộng tấm lòng, để biết yêu thương thêm những số phận xấu số, khổ đau “để tình trang trải khắp muôn nơi”, đồng thời cũng tự nguyện gắn bó, kết nối với những thế cuộc xung quanh khi “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”. Sự gắn kết tình thương mến thương, sự sẻ chia khi tác giả “Để hồn tôi với bao hồn khổ/sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời” đã tạo thành khối đại kết đoàn dân tộc vững chắc, dẻo dai, trở thành thứ vũ khí lợi hại, là thành trì kiên cố nhất chống lại sự chống phá khốc liệt của quân thù. Có thể nói rằng việc trở thành Đảng viên khi còn trẻ tuổi đã mang tới cho thế cuộc Tố Hữu những bước ngoặt lớn, ông không chỉ tìm thấy cho mình tuyến đường mới, mở ra một sự nghiệp cách mệnh vẻ vang lắm gian lao, mà còn thay đổi triệt để nhận thức, từng góc một trong tâm hồn người đội viên đều như được được chiếu rọi bằng ánh sáng của lý tưởng phóng thích dân tộc, làm nên một thế cuộc mới, nhiều ý nghĩa suốt mấy chục năm sau này và mãi mãi về sau.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”

kế bên sự thay đổi về nhận thức, hiểu được sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân trong vai trò người đội viên cách mệnh, ở Tố Hữu ta còn nhận thấy được sự chuyển biến sâu sắc trong phương diện tình cảm. Người đội viên trẻ tuổi đã không còn tự ôm lấy mình, thương cảm cho thế cuộc lạc lõng, tăm tối, mà thay vào đó tác giả tự xem mình trở thành một thành viên trong “đại gia đình” 54 dân tộc anh em, không phân biệt giàu nghèo, tầng lớp, địa vị, già trẻ lớn bé, trở thành con, anh, em của vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ. Lượng từ “vạn” càng nhấn mạnh tấm lòng mông mênh, rộng lớn mà người đội viên trẻ dành cho đồng bào mình, ấy là khát khao được hòa nhập, được đồng cam cộng khổ, được thấu hiểu từng thế cuộc, được chăm lo tới từng số phận, để người nào người nào cũng được no ấm, hạnh phúc. Ấy là ước mơ cũng đồng thời là lý tưởng cách mệnh vĩ đại của người đội viên trẻ, vừa mới khởi đầu một chặng đường phóng thích dân tộc đầy gian lao. Câu thơ bộc lộ sự tự nhận thức một cách toàn diện, sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn của Tố Hữu. Giờ đây ông không còn đấu tranh một mình, đấu tranh chỉ vì lý tưởng của bản thân, mà hơn hết là ông đấu tranh vì cả quốc gia, vì cả một dân tộc đang lầm than, vì những con người thân yêu ruột thịt.

Khổ thơ đã thể hiện được những phẩm chất đáng quý của một người đội viên cách mệnh, noi gương Hồ Chí Minh, sống giữa đất trời có tấm lòng rộng lớn, mông mênh, không quản ngại gian lao, sẵn sàng đứng lên hy sinh thế cuộc vì nhân dân, vì quốc gia, ý thức sâu sắc được trách nhiệm, sứ mệnh của bản thân. Biết yêu thương, sẻ chia và thấu hiểu cho những mảnh đời gia khó khắp muôn nơi, bất bình, phẫn nộ trước những ngang trái, bất công, đau xót trước những cảnh lầm than, đớn đau, lấy đó làm động lực, nguồn nuôi dưỡng cho ý chí đấu tranh mạnh mẽ, không ngừng nghỉ.

Từ ấy là một trong những tác phẩm hay và tiêu biểu nhất trong chặng đường sáng tác miệt mài của Tố Hữu. Không chỉ đơn thuần là ghi dấu lại một bước ngoặt quan trọng nhất trong thế cuộc cách mệnh của tác giả mà ở tác phẩm này người ta thấy rất rõ được sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn của ông. Khi những dòng thơ đã thể hiện tinh tế sự chuyển đổi từ cái tôi tư nhân hồn nhiên, tươi sáng trong niềm vui hoan hỉ khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng sang cái ta chung khi nhận thức được sứ mệnh và trách nhiệm của Tố Hữu. không những thế lối thơ tự nhiên, giàu hình ảnh, sức sáng tạo và sự lãng mạn thiên hướng Pháp đã mang tới cho tác phẩm sức lôi cuốn riêng biệt, ghi danh vào một trong những tác phẩm thơ trữ tình chính nổi tiếng và đáng nhớ suốt cả chặng đường thơ của Tố Hữu, cũng như trong nền thơ ca cách mệnh Việt Nam kế bên Việt Bắc.

3. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 3

Tố Hữu là thi sĩ lớn, sắp gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn độc bởi chất men say của lí tưởng cao cả của tình yêu thương tình thật cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thư từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của thi sĩ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là xúc cảm vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muốn hoà nhập và cống hiến hết mình áo thế cuộc.

Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong thế cuộc. Với người mẹ đó là khi đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu liên đã tưởng tuồng như quen biết tự bao giờ. thi sĩ Xuân Diệu từng có giây phút đó:

Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi

Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc nhất là lúc trông thấy tuyến đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ – mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mệnh sớm đưa lại những thay đổi kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian thế cuộc của thi sĩ tự phân làm hai nửa trước và sau Từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con người. Trước Từ ấy, cuộc sống bế tắc không lối thoát, đơn chiếc vô vọng ngán ngẩm:

Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát thương ôi, bước chẳng rời.

(Nhớ đồng)

Đó không phải là tâm trạng của riêng minh thi sĩ mà là chúng cho cả một hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn lựa một dòng hay để nước trôi đi. Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, khổ đau, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hứa. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút thay đổi ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngỏng sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chỉ lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hoá, lay động vừa thức tình không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con người của thi sĩ. nhịn nhường như có một cuộc thay đổi nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng tới từng chi tiết và xúc cảm phát sinh. Niềm vui sướng thật sự đang trào khi tâm hồn thi sĩ có cuộc sống mới tươi vui, rộn ràng:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Hình ảnh so sánh hồn tôi – vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín thi sĩ được phơi trải ra thật sống động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có mùi thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được thi sĩ sàng lọc để nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. Nó được đẩy tới ngưỡng cao nhất . Bằng việc sử dụng những tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người đội viên cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng thi sĩ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhõm dứt khoát mà thấm đẫm xúc cảm vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.

Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:

Rồi một hôm nào tôi thấy tôi

nhẹ nhõm như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời.

Sau những phút giây sung sướng trông thấy lí tưởng cao cả cần đi, người đội viên cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước thế cuộc. thi sĩ thay lời cái tôi đội viên nói lên tâm nguyện, khát vọng ấy:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Con người tư nhân tới đây đang tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn – cái tôi hướng tới thế cuộc và mọi người. Những ích kì, hẹp hòi ngăn cách cái tôi tới với mọi người không còn nữa, tuyến đường hoà nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn lựa bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự tình thật, tự nguyện. Tôi – thi sĩ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xoá bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự thông cảm, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. ý thức tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, sắp gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng tăng phẩm chất của người cách mệnh. Tình nhân ái làm cho mỗi người hoà vào thế cuộc chung trở thành con người đúng theo nghĩa của nó.

Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước thế cuộc rộng lớn:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.

Ba từ là xuất hiện liên tục trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoái cho sự hoà nhập tuyệt đối. Người đội viên đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của những em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây được tạo bởi từng số phận với những tình cảnh riêng là em Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. thi sĩ bắt gặp thế cuộc mình trong những mảnh đời khốn cùng ấy, số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ, ở đó không còn là sự thông cảm mà cao hơn thi sĩ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải đấu tranh để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, dạy bảo những em thơ.

tới đây phẩm chất của người cách mệnh được soi sáng. Tâm hồn, nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng. Không có sự tri nghiệm, người cộng sản – thi sĩ không thể có những thay đổi lớn lao tương tự. Từ ấy là bản đàm đạo khúc vui trước hết của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với thế cuộc.

Thơ Tố Hữu hay khi phối hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. thi sĩ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết của biết bao thế hệ để họ ngày hôm nay và ngày mai thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

4. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 4

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mệnh rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản.

Đây là thời khắc có ý nghĩa quyết định cả thế cuộc cách mệnh và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mệnh. Bài thơ là tiếng reo vui của người đội viên say mê lí tưởng, yêu nước, yêu thế cuộc, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là ý kiến, là nhận thức sâu sắc của thi sĩ về mối quan hệ mật thiết giữa tư nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại lao động dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.

Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mệnh:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, xoá sổ bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có nhẽ là lúc thi sĩ đã giác ngộ cách mệnh và tự nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp lao động để đấu tranh tự phóng thích. Đây cũng là thời gian khởi đầu thế cuộc làm cách mệnh của thi sĩ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa thế cuộc.

Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, đau buồn trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của thi sĩ khi bắt gặp lí tưởng cách mệnh cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.

Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, tức là thi sĩ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của thi sĩ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mệnh đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

thi sĩ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho thi sĩ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một toàn cầu đầy hương sắc, âm thanh:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. thi sĩ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của thế cuộc bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy sức sống của một vườn hoa lá tươi tốt tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca.

Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền sức sống vào trái tim người trẻ trai. Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn.

Tố Hữu còn là một thi sĩ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. cách mệnh không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mệnh đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.

Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả xúc cảm mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mệnh, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.

nếu như ở khổ thơ trước với giải pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng tiếng nói giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhõm, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng tình thật của thi sĩ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mệnh”.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của thi sĩ đối với giai cấp lao động. thi sĩ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi tư nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi tư nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi tư nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn thi sĩ trải rộng ra với thế cuộc, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung tình cảnh trong thế cuộc, kết đoàn chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung.

Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi tư nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đó, thi sĩ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. thi sĩ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.

Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp thi sĩ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, thi sĩ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mệnh. Người đội viên ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.

Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một đội viên khi đã đứng trong hàng ngũ cách mệnh. Điệp từ là cùng với những từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết.

Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người khổ đau, xấu số, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của thi sĩ biểu hiện thật tình thật, xúc động.

từ đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của thi sĩ trước những bất công, ngang trái của thế cuộc cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mệnh và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của thi sĩ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão tôi đòi, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)

Bài thư từ ấy tiêu biểu cho văn pháp lãng mạn cách mệnh trong giai đoạn sáng tác trước hết của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, tình thật những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng.

Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên khởi đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào tuyến đường cách mệnh đầy hắc búa, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mệnh. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

5. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 5

Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mệnh. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên tuyến đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mệnh.

“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong thế cuộc và trong cả tâm hồn của thi sĩ. Giây phút ấy khiến thi sĩ vui mừng tới nỗi không thể khái niệm chuẩn xác được, chỉ biết là “từ ấy”.

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được thi sĩ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh. “Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng tới từ “trong tôi”, từ trái tim người đội viên trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mệnh đã soi sáng cho tâm hồn thi sĩ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người đội viên trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, thi sĩ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người đội viên trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời rét mướt và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót. Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự nô nức, say sưa, rộn rực và tràn đầy nhiệt huyết của thi sĩ khi tìm được lí tưởng của mình.

Từ giác ngộ lí tưởng, người đội viên trẻ tuổi tiếp tục chọn lựa cho mình một lẽ sống mới:

“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

thi sĩ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn. Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ thông cảm, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, sắp gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi.

Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của thi sĩ về vai trò, vị trí của mình:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống ngày hôm nay chưa biết tới ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách. Từ “là” được thi sĩ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội. “Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường nhật của những người lao động nói chuyện với nhau. Cuộc sống trật, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời giãi tỏ lòng xót thương của thi sĩ trước tình cảnh bất công, trái ngang của thế cuộc.

“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của thi sĩ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện đấu tranh hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì quốc gia. Họ là những người đội viên trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương quốc gia. Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, sắp gũi, là đại diện cho một lớp thi sĩ mới.

6. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 6

Tố Hữu là thi sĩ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, tuyến đường cách mệnh cũng là tuyến đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, thi sĩ được vinh dự trở thành người đội viên cộng sản của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin.

Bài thơ đước viết theo thể thơ thất ngôn ngợi ca lí tưởng cách mệnh và mang tên tình yêu giai cấp của người đội viên trẻ.

Khổ thơ mở đầu đựng lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

“Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), thi sĩ vui sướng, hoan hỉ chào đón “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người đội viên trẻ cảm thấy được hồi sinh “bừng nắng hạ”. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lenin. Lí tưởng cách mệnh, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở rộng tâm hồn trí tuệ, làm cho thế cuộc đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng “tôi” và tuyến đường cách mệnh “bừng nắng hạ” chói chang, rét mướt. Trái tim “tôi” có “Mặt trời chân lí chói qua…”. Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu “hoa lá”, ngát “đậm hương” và “rộn tiếng chim” hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lựa lọc một số từ có trị giá gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ngợi ca lí tưởng và tình yêu lí tưởng. tới với chủ nghĩa Mác – Lênin, thi sĩ xứ Huế có rất nhiều vần thơ độc đáo, đằm thắm:

“Khi ta đã say mùi hương chân lí

Đời đắng cay không một tẹo ngọt bùi

Đời đau buồn không một tiếng cười vui

Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”

(“Như những con tàu” – 1938)

Có thể nói, Tố Hữu là thi sĩ viết hay nhất về lí tưởng cách mệnh bằng văn pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thật vô cùng kì diệu. “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông – Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người”, “với trăm nơi “với bao hồn khổ” với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức mọi rợ. những từ ngữ: “buộc”, “trang trải”, “sắp gũi” – biểu lộ sự gắn bó thiết tha với toàn cầu lao động, với “khối đời” – khối công nông liên minh:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi vời bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

Người đội viên trẻ, người thanh niên cộng sản trên tuyến đường cách mệnh quyết tâm đấu tranh và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: “là con của vạn nhà”, “là em của vạn kiếp phôi pha”, “là anh của vạn đầu em nhỏ… những từ: “là”, những số từ “vạn” được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha tình thật, thấm thía xúc động:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”.

thi sĩ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới “mặt trời chân lí”, dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của cách mệnh.

Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ngợi ca lí tưởng cách mệnh và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách tình thật và say mê. “Từ ấy” là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và cách mệnh. Đọc “Từ ấy” ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình”.

7. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 7

thi sĩ Tố Hữu được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình chính trị, nhịn nhường như cả thế cuộc thơ Tố Hữu dành để ngợi ca quốc gia, ngợi ca nhân dân, ngợi ca lí tưởng cách mệnh thể hiện một cái tôi say mê với lý tưởng, một cái tôi công dân đầy trách nhiệm đối với nhân dân, đối với quốc gia. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới những tập thơ nổi tiếng như: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”… trong đó tập thơ đầu tay “Từ ấy” là tập thơ mang một sắc thái riêng, tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi tới với cách mệnh. Tác phẩm là cột mốc quan trọng mở đầu cho chặng đường đời, chặng đường thơ của Tố Hữu.

Tập thơ “Từ ấy” là tiếng hát trong trẻo, phấn chấn, say mê của người thanh niên cộng sản khi mới bắt gặp lí tưởng cách mệnh. Tập thơ này gồm 71 bài thơ được chia làm 3 phần: Máu lửa, xiềng xích, phóng thích. Trong đó bài thơ “Từ ấy” được rút từ phần 1, phần Máu lửa, được coi là bài thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong tập thơ.

Bài thơ được Tố Hữu viết vào năm 1938, đó là thời khắc Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong thế cuộc, trong thơ Tố Hữu. Như chính thi sĩ đã từng viết “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh”. Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của thi sĩ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lý tưởng cách mệnh đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu. Bài thơ còn thể hiện quá trình vận động của tâm trạng cũng như nhận thức của người thanh niên trí thức tiểu tư sản sang người trí thức cách mệnh giàu lòng yêu nước.

Khổ 1 của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng Sản. Ở khổ thơ đầu có sự phối hợp hài hòa giữa hai văn pháp Tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo văn pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong thế cuộc của người đội viên cách mệnh trẻ:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”.

“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong thế cuộc cách mệnh và trong thế cuộc thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mệnh một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho xúc cảm của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hoan hỉ, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho thế cuộc của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mệnh. Những từ ngữ được sử dụng chuẩn xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của thi sĩ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mệnh là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của thi sĩ đối với cách mệnh. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn thi sĩ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng văn pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một toàn cầu tươi sáng, rộn ràng, tràn đầy sức sống. thi sĩ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó độc giả chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của thi sĩ khi tới với cách mệnh. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mệnh không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là thi sĩ say mê ngợi ca nhân dân, ngợi ca quốc gia, say mê hoạt động cống hiến cho cách mệnh. tương tự, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng xúc cảm dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mệnh đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người tình thật, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất thích hợp.

Những nhận thức mới về lẽ sống:

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi tư nhân và cái ta chung của mọi người:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi”

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi tư nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn tức là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của thi sĩ đang trải rộng với thế cuộc: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói tới ý thức kết đoàn. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một tình cảnh, cùng chung một lí tưởng, kết đoàn với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. tương tự, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chuẩn xác, giàu ngụ ý, thi sĩ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh kết đoàn, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi tư nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa tư nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu thi sĩ Tố Hữu.

thi sĩ khép lại với sự chuyển biến của tình cảm trong thi sĩ Tố Hữu. Từ thay đổi về nhận thức dẫn tới sự thay đổi về tình cảm.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Ở khổ thơ này, thi sĩ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với những tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, khốn cùng, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi tư nhân, ích kỉ, hẹp hòi. thi sĩ đã vượt qua giai cấp của mình đế tới với giai cấp vô sản với tình cảm tình thật và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mệnh đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những thi sĩ cách mệnh, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mệnh. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. những thi sĩ lãng mạn quan niệm:

“Là thi sĩ tức là ru với gió

Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

(Xuân Diệu)

Nhưng quan niệm của những thi sĩ cách mệnh, thi sĩ, nhà văn phải là người đội viên trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:

“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ

Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”

Hay Hồ Chí Minh đã viết:

“Nay ở trong thơ nên có thép

thi sĩ cũng phải biết xung phong”

Với cách sử dụng linh hoạt những văn pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả những giải pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, tiếng nói rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của thi sĩ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho tuyến đường cách mệnh, tuyến đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người đội viên cách mệnh và cũng là tuyên ngôn của thi sĩ đội viên. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự phối hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn những thủ pháp nghệ thuật thân thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu tiết điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

8. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 8

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào xúc cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù người nào thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy nòi giống”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mệnh, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những trị giá tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đằm thắm qua những tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mệnh:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời khắc lịch sử đã trực tiếp tác động tới thế cuộc thi sĩ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mệnh. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, đau buồn, quét sạch mây mù và đen tối hướng tới cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc no ấm.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mệnh”

Và đó mới là thực chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mệnh , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mệnh cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi phối hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi hợp lí tưởng cách mệnh, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng cách mệnh đã làm thay đổi hẳn một con người, một thế cuộc. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mệnh đem lại:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rộn rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngát hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

9. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 9

Bài thơ “Từ ấy” – Tố Hữu được viết năm 1938, bài thơ là tiếng lòng của một người cách mệnh trên tuyến đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của chưng. Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm cuả chính tác giả.

Bài thơ được viết trong khoảng thời gian (1937 – 1946), đây là thời gian đầu Tố Hữu tham gia cách mệnh, trở thành một người đội viên. “Từ ấy” là bài thơ được viết trong giai đoạn này, cũng là bài thơ đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn tác giả.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

“Từ ấy” chỉ một mốc thời gian, mốc son đánh dấu sự thay đổi lớn trong thế cuộc Tố Hữu khi bắt gặp được lý tưởng sống cho chính thế cuộc mình. Đó còn là tiếng reo hò sung sướng tột bậc, niềm hạnh phúc ngập tràn khi trở thành một người cách mệnh, được ánh sáng của Đảng và chưng dẫn đường. thi sĩ đã mô tả nó như “nắng hạ”, như ánh sáng sáng rực rỡ, chói chang của mùa hè, soi tỏa vào trong chính trái tim đang sục sôi tuổi xanh của thi sĩ. Ánh sáng đó được ẩn dụ như hình ảnh “mặt trời”. nếu như như mặt trời thật đem lại ánh sáng rét mướt cho vạn vật, là nguồn sống cho muôn loài, thì “mặt trời chân lý”, mặt trời của Đảng xuất hiện đã xua tan màn sương mù tối tăm, đem lại một lẽ sống mới không chỉ cho chính tác giả, còn cho cả dân tộc Việt Nam, đang chìm đắm trong đói khổ với tư tưởng tiểu tư sản. Tố Hữu đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả một cách mạnh mẽ tác động to lớn cho ánh sáng của Đảng khiến cho người cách mệnh như bừng tỉnh sau những ngày tăm tối.

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự chuyển biến sâu sắc đó, như một sức mạnh kỳ diệu, nó được bắt nguồn từ chính con người tác giả khi được Đảng soi đường, chỉ lối. Khiến cho tâm hồn của người đội viên trẻ như rộn ràng, tràn đầy sức sống. thi sĩ đã so sánh nó như “một vườn hoa lá” với đủ sắc hương của đất trời, cả sự sống đang sinh sôi, nảy nở, nhảy múa hát ca, rộn ràng tiếng chim hót. nhịn nhường như sau những ngày tăm tối, không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn thấy tương lai, cùng với khi huyết của tuổi xanh mong muốn được thay đổi, được cống hiến cho quốc gia đánh đuổi giặc ngoại xâm thì giờ đây khi có “mặt trời chân lý” của Đảng dẫn dắt làm cho tâm hồn thi sĩ trẻ lại, sục sôi ý chí đấu tranh, khơi dậy sức sống và cảm hứng sáng tạo mới cho tác giả.

Ở khổ thơ thứ hai, từ sau khi gặp được chân lý của thế cuộc mình thi sĩ đã có những sự thay đổi đặc biệt trong nhận thức, trong tuyến đường làm cách mệnh của mình

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Trước khi được trở thành một nhà cách mệnh, được giác ngộ lý tưởng mới thì Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Với tư tưởng tiểu nông hạn hẹp thì giờ đây thi sĩ đã có cách nhìn nhận mới trong suy nghĩ. thi sĩ đã bỏ qua sự hẹp hòi của tư tưởng cũ, vượt qua những rào cản định nghĩ của giai cấp để thấu hiểu quần chúng khổ lao. Đây là không phải là sự ép buộc mà thi sĩ đã tự nguyện “buộc”, tự nguyện gắn mình với “mọi người”, với những tầng lớp bần cùng của xã hội. Đem trái tim mình hòa cùng nhịp đập, cùng đau tiếng đau của đồng bào, cùng chia sẻ những mất mát, đắng cay ngọt bùi mà nhân ta đang chịu đựng. thi sĩ mong muốn gây dựng những con người đang chịu cảnh nô lệ trở thành “khối đời” một khối thống nhất, như anh em ruột thịt, taọ nên một sức mạnh tập thể, không gì có thể đàn áp được

Bốn câu thơ cuối thể hiện rõ tấm lòng, sự đồng cảm của chính thi sĩ, lời khẳng định trong tuyến đường làm cách mệnh

Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

thi sĩ đã sử dụng điệp từ, cùng với những “con, em, anh”, như một sự khẳng định chắc chán sự gắn bó giữa mình với nhân dân lạo động. thi sĩ như một thành viên trọng gia đình của mọi tầng lớp trong xã hội. Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. thi sĩ tự nguyện làm “con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ”, nguyện mang cả thế cuộc mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời xấu số, những kiếp sống mòi mỏi trong vô vọng, những đứa bé tội nghiệp. từ đó, ta còn cảm nhận được sự căm ghét sâu sắc trong lòng tác giả đối với những cảnh bất công trong xã hội, chính những mảnh đời đáng thương đó mà thi sĩ đi theo cánh mạng, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, hăng say đấu tranh, hăng say sáng tác

Bài thơ là tiếng lòng, tiếng reo mừng sung sướng của không chỉ tác giả mà đại diện cho thế hệ trẻ của quốc gia lúc bấy giờ khi tìm thấy lý tưởng của Đảng. Là sự nhận thức mới, cách nghĩ mới, đem tuổi xanh cống hiến cho đời và cho tổ quốc.

10. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 10

chủ toạ Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ là đội viên trên mặt trận ấy”, trong những năm trường kì kháng chiến chống Pháp có biết bao con người đã ra mặt trận, đã cống hiến và hy sinh cho Tổ Quốc. “Mặt trận nghệ thuật” là “một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi toàn cầu giả dối, tàn ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Và một trong những đội viên – nghệ sĩ tích cực trong cả mặt trận kháng chiến và mặt trận nghệ thuật chính là Tố Hữu và bài thơ “Từ ấy” là tác phẩm đã ghi dấu một kỉ niệm sâu đậm trong thế cuộc ông – một tiếng reo vui đầy tự hào của thi sĩ khi đã giác ngộ lí tưởng cách mệnh:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

……………………………..

Không áo cơm cù bất cù bơ”

Tố Hữu cũng giống như bao người thanh niên khác cùng thời trước khi tới với ánh sáng cách mệnh, lúc không tìm thấy lối đi cho riêng mình thì đó là những tháng ngày mà Tố Hữu viết “Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi/ Băn khoăn tìm lẽ yêu đời/ Vẫn vơ theo mãi vòng quanh quẩn/ Muốn bước thương ôi bước chẳng rời” nhưng rồi ánh sáng của Đảng như nguồn ánh sáng diệu kì làm bừng sáng tâm hồn thi nhân – tháng 7 năm 1938 Tố Hữu vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng, phút giây ấy đã thăng hoa cùng thi sĩ:

“Từ vô vọng, mênh mông đêm tối

Người đã tới. Chói chang nắng dội

Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu

Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu.”

Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say mê khi bắt gặp lí tưởng Đảng của cái tôi trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Sau thời gian hoạt động tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế, Tố Hữu vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Hai chữ “Từ ấy” là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong đời cách mệnh và đời thơ Tố Hữu khi mới 18 tuổi, đang “băn khoăn tìm lẽ yêu đời” thi sĩ được giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự kiện thiên liêng khi ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam đã khiến thi sĩ sững sờ vì hạnh phúc, sung sướng. thi sĩ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng một hình ảnh thơ rất chói chang và ấm nóng: “bừng nắng hạ”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột: bừng sáng, bừng ngộ, bừng tỉnh. Ánh sáng ấy không chỉ tràn ngập không gian bên ngoài mà còn tỏa ra từ tâm hồn thi sĩ, nó đánh thức một tâm hồn đang lạc lối để vượt qua u tối và vươn tới ánh sáng của ngày mới:

“Con lớn lên, con tìm cách mệnh

Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi

Mẹ không còn nữa, con còn Đảng

Dìu dắt con khi chưa biết gì.”

Hình ảnh cùng ý nghĩa ánh sáng còn được làm rõ hơn trong câu thơ:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Đó là ánh sáng của một vầng mặt trời đặc biệt – mặt trời chân lí – ánh sáng của Đảng, của lí tưởng cộng sản với những tư tưởng mới mẻ, đúng đắn, tiến bộ làm xua tan trong ý thức hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra trong tâm hồn thi nhân một chân trời mới về tình cảm, nhận thức. nếu như mặt trời của thiên nhiên đem tới ánh sáng, khá ấm và sức sống cho muốn loài thì Đảng cũng đem tới ánh sáng của niềm tin, khá ấm của tình người, và sự sống cho dân tộc, cho muôn người. thi sĩ sử dụng động từ mạnh “chói” vừa mô tả ánh sáng, vừa gợi sức mạnh xuyên thấu tư tưởng cộng sản đối với trái tim khát khao “lẽ yêu đời” của thi nhân – lí tưởng của Đảng đã thực sự làm bừng sáng tâm hồn của người thanh niên ưu tú.

Khi tới với hai câu tiếp theo, người đọc sẽ thấy được cụ thể hơn niềm vui sướng vô hạn của thi sĩ trong buổi đầu tới với lí tưởng cộng sản:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Tố Hữu đã thành công trong việc sử dụng văn pháp so sánh “vườn hoa lá – đậm hương và rộn tiếng chim” để hữu hóa niềm vui sướng trong lòng người, đó là một toàn cầu tràn đầy sức sống với cả hình ảnh hoa lá xanh tươi, cả hương thơm trái cây nồng đượm, cả âm thanh rộn ràng, say đắm của tiếng chim ca hót. Và đó là do ánh sáng chói chang ấp áp của mặt trời – sự hòa quyện giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ đã khẳng định tác động mạnh mẽ, kì diệu của lí tưởng cộng sản với trái tim con người. Hơn nữa Tố Hữu còn là một thi sĩ nên niềm yêu đời và sức sống mới tràn trề trong tầm hồn cũng trở thành cảm hứng mãnh liệt cho thi ca. cách mệnh không hề đối lập với nghệ thuật mà trái lại, ánh sáng kì diệu của lí tưởng cách mệnh đã khơi dậy sức sống sáng tạo mới mẻ cho hồn thơ:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau

Đảng cho ta trái tim giàu

Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay”

(Bài ca xuân 61)

Khổ tiếp theo của bài thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. thi sĩ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với mọi người, với “trăm nơi” với quần chúng đông đảo khắp mọi miền quốc gia. Cụm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn thi sĩ như muốn trải rộng với thế cuộc rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi tình cảnh của những thế cuộc lao động. Đây là điều khác biệt với những thi sĩ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mệnh và đi theo tuyến đường lý tưởng thì những thi sĩ mới lại đang đau buồn với cái tôi nhỏ bé, đơn chiếc, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy.

Hai câu thơ sau khẳng định tình hữu ái giai cấp trong tình yêu thương của Tố Hữu với con người và thế cuộc:

“Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

thi sĩ hướng tình yêu thương của mình tới “mọi người”, “trăm nơi”,… ; nhưng cụ thể hơn, đó là những con người thuộc giai cấp lao động, những kiếp sống khốn khổ, xấu số nghèo đói. Câu thơ cuối khẳng định sức mạnh của tình kết đoàn qua hình ảnh ẩn dụ về “khối đời” – đó là một cộng đồng chung tình cảnh. số phận, khát khao và ý chí để cùng nhau hướng tới một lí tưởng cao đẹp… những cái chung ấy sẽ đem lại cho họ một sức mạnh vô địch.

Khổ thơ cuối cùng khép lại là sự chuyển biến sâu trong tình cảm của thi nhân. Là sự hóa thân của cái tôi vào cái ta chung của “kiếp phôi pha”:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu đã khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, khổ đau trong xã hội cũ. những điệp từ “là” cùng với những từ “con”, “em”, “anh” đã khẳng định điều đó. Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức đông đảo. Họ là kiếp phôi pha là chị vú em với nỗi buồn thân phận:

“Nàng nhớ con nằm trong cửi lạnh

Không chăn, không nệm ấm không màn

Có biệt chăng trong những giờ hiu quạnh

Nó gợi tên nàng tiếng đã khàn”

Hay là hình ảnh lảo tôi đòi với nỗi khốn cùng thân già; là cô gái giang hồ trên sông Hương với bao nỗi nhọc nhằn của kiếp người:

“Em đi với chiếc thuyền không

Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!

Trời ôi, em biết khi mô

Thân em hết nhục giày vò năm canh”

(Tiếng hát sông Hương)

Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “em” … “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạnh, và họ cúng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của thi sĩ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã giãi tỏ niềm thông cảm sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú em”, “cô gái giang hô”, “lão tôi đòi”,… những con người mà tác giả nghĩ rằng đó là “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”.

Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ sâu sắc về nội dung và độc đáo và nghệ thuật. Ngòi bút tinh tế, sử dụng hình tượng thơ táo bạn, chói sáng, giàu khát vọng lãng mạn bay bổng, say mê. Câu thơ mạnh, xúc cảm thơ tràn đầy. Nhạc thơ biến đổi sinh động, hãm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn. những giải pháp tu từ được sử dụng nhuần nhuyễn như: điệp từ, so sánh, ẩn dụ,.. tất cả làm nên một bài thơ hay và lôi cuốn người đọc.

“Thuyền còn vượt sóng không nghiêng ngả

Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ

Mới nửa đường thôi. Còn bước tiếp

Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ!”

Với “Đảng và thơ”, ở tuổi lục tuần, Tố Hữu vẫn nồng nàn tâm sự như thế. Đã hơn 80 năm từ ngày Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tình yêu cách mạnh, chặng đường cách mạnh và hào khí trong thơ ông vẫn chưa tìm được tới điểm ngừng, hay phải chăng điểm ngừng ấy đã nằm ở vô cực của thế cuộc với ông. Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy xúc cảm. Đó chính là cái tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem cả ý thức và tuổi xanh của mình cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ của Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.

11. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 11

Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mệnh. Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã trở thành một đội viên cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sống cách mệnh và chính trị, thời sự quốc gia. Từ ấy (1937 – 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một đội viên cách mệnh cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của thi sĩ. Bài thơ cũng là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Tâm trạng thi sĩ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sống (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Sự vận động của tâm trạng thi sĩ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, những giải pháp tu từ gợi cảm và tiếng nói giàu nhạc điệu.

Hai câu thơ mở đầu được viết theo văn pháp tự sự, thi sĩ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mệnh và đời thơ của Tố Hữu. lúc đó thi sĩ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tô Hữu khẳng định lí tưởng cách mệnh như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn thi sĩ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí – một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, khá ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng tương tự thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ bừng (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột.), chói (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mờ ra trong tâm hồn thi sĩ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.

Ở hai câu sau, văn pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thế niềm vui sướng vô hạn của thi sĩ trong buổi đấu tới với lí tưởng cộng sản. Đó là một toàn cầu tràn đầy sức sống với hương sắc của những loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn ràng của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đôi với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì quý giá hơn khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một thi sĩ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. cách mệnh không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sống, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi tư nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa cái tôi tư nhân và cái ta chung của mọi người. Với động từ buộc, câu một là một cách nói quá thế hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi tư nhân để sống chan hòa với mọi người (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ trang trải ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn thi sĩ trải rộng với thế cuộc, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người cùa Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ. Ớ câu 4, khối đời là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung tình cảnh trong thế cuộc, kết đoàn chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi cái tôi chan hòa trong cái ta, khi tư nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.

Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đó Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chì bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. từ đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp thi sĩ có được lẽ sống mới mà còn giúp thi sĩ vượt qua tình cảm ích kỷ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản đế có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ là cùng với từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thản thiết, cho thấy thi sĩ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của thi sĩ còn biểu hiện thật xúc động, tình thật khi nói tới những kiếp phôi pha (những người khổ đau xấu số, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ không áo cơm cù bất, cù bơ (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hờn của thi sĩ trước bao bất công, ngang trái của thế cuộc cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mệnh, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của thi sĩ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khốn khổ trong Lão tôi đòi; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,…).

tới đây có thế thấy, về ý kiến nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là ý kiến của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa tư nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại lao động.

Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mệnh. Sự vận động của tâm trạng thi sĩ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng những giải pháp tu từ và tiếng nói giàu nhạc điệu. Từ ấy đánh dấu một thời khắc quan trọng trong thế cuộc Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của ông. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả những thế hệ.

12. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 12

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, ông sinh và và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là một trong những thi sĩ tiêu biểu cho phong trào thơ cách mệnh Việt Nam. Nhắc tới thơ Tố Hữu là nhắc tới những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện khát khao, ý chí của những người cách mệnh nặng lòng với quốc gia. Những tâm sự của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng. Có thể nói, Tố Hữu chính là lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt những tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu và hoa. Bài thư từ ấy được trích trong tập thơ cùng tên là một bông hoa đẹp trong vườn thơ đầy hương sắc của ông.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, thi sĩ nhắc lại một sự kiện trọng đại trong đời mình. Trạng ngữ “Từ ấy” đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời khắc đầy ý nghĩa khi tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản. Hình ảnh “nắng hạ” phối hợp với động từ mạnh “bừng” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý tưởng cách mệnh tác động vô cùng mạnh mẽ tới tâm hồn thi sĩ. Nguồn sáng ấy không phải là nắng vàng rét mướt của mùa thu hay nắng xuân mơn man nhè nhẹ mà đó là nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức và tình cảm trong con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó là nguồn sáng được phát khởi từ ánh mặt trời khác thường, đặc biệt và duy nhất “mặt trời chân lý”. nếu như mặt trời tạo hóa tặng thưởng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân lý mang tới những tư tưởng, tuyến đường đúng đắn cho cách mệnh, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự nghiệp phóng thích dân tộc phía trước.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng”

Mặt trời chân lý rọi sáng trái tim người đội viên khiến tâm hồn như rộn rực, như say mê. Hình ảnh so sánh thật sắp gũi hồn tôi-vườn hoa lá càng tô đậm sức sống mãnh liệt, niềm vui tột bực của thi sĩ lúc ấy. Vườn hoa lá với một toàn cầu đủ hương sắc, thanh âm như hòa nhập, sôi động và dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này đây đang vỡ òa với bao xúc cảm tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng Đảng sáng soi. Đó là một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao tận hiến đời mình cho cách mệnh, cho nhân dân.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải tới muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca chủ yếu đề cao cái tôi tư nhân, họ chọn lựa một cái tôi thoát ly để rời xa thực tiễn bất công, ngán ngẩm. Riêng với Tố Hữu đó là một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn thế cuộc mình, với nhân dân. Câu thơ đầy chủ động “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” đã thể hiện được một trái tim giàu tình cảm, vì nhân dân và ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả. Động từ “trang trải” phối hợp với danh từ “muôn nơi” cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm của thi sĩ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền quốc gia.

“Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại kết đoàn toàn dân tộc được kết lại từ lòng nhân ái, ý thức vì mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người cùng lý tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên tuyến đường có lý tưởng cách mệnh sáng soi.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”

Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người đội viên với nhân dân mình. Điệp từ “là” phối hợp cùng giải pháp điệp cấu trúc và những từ cùng trường từ vựng gia đình “con”, “anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm rét mướt, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó là một tấm lòng đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi tư nhân để sống vì người khác. Thật xúc động khi thi sĩ đã dành những câu thơ cuối bài để viết về những “kiếp phôi pha” xấu số, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nhỏ “cù bơ cù bất” đói rét trong thế cuộc. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng định tới cuối cùng, lý tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính là chiến đầu vì nhân dân, vì hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt là với những phận đời nghèo khổ, thương đau.

Bằng thể thơ bảy chữ, phối hợp với giọng điệu vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên yêu nước được giác ngộ và say mê, tin yêu vào lý tưởng cách mệnh. “Từ ấy” đã trở thành một bài thơ bất hủ, nhắc nhở mỗi chúng ta về ý thức và trách nhiệm với thế cuộc mình, với quốc gia, nhân dân.

13. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 13

Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mệnh Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng dạt dào tình cảm. “Từ ấy” là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mệnh. Bài thơ chính là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam.

“Từ ấy” là một từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa lớn trong thế cuộc của người thanh niên cách mệnh, đánh dấu sự trưởng thành, lớn lên về tâm hồn cũng như lý tưởng cách mệnh. Giây phút ấy khiến cho tác giả nghẹn ngào, nhịn nhường như không nói được nên lời, chỉ có thể dồn trong hai từ “từ ấy”.

Từ ấy chính là xúc cảm chủ đạo của bài thơ, là tiếng lòng reo vui, rộn ràng, tràn ngập tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau thời gian xác định “từ ấy” chắc chắn người thanh niên đó sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ trong thế cuộc cũng như trong tuyến đường hoạt động cách mệnh của mình.

Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn ràng, tràn ngập tin yêu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian “từ ấy” đó chính là những bước ngoặt cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất.

Từ “bừng” ở câu thơ trước hết như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý tức là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình. Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác giả sử bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của thế cuộc để tới với ánh sáng của cách mệnh và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là “chân lý”, điều đáng trân trọng một đời. Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người đội viên cách mệnh

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự thức tỉnh và giác ngộ cách mệnh khiến tâm hồn của người đội viên trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến thế cuộc mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng nhịn nhường như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.

Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mệnh đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:

Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm vạn khối đời

Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi tư nhân vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, mông mênh nhất. Từ “buộc” ở câu thơ trước hết gợi lên cảm giác gắn bó đối với người đội viên cách mệnh với mọi người. Từ “buộc” chính là sợi dây, là tuyến đường, là lẽ sống mà người đội viên đã lựa chọn lựa và theo đuổi tới cùng. Với một tấm lòng kiên trung, tình yêu thương rộng lớn, người đội viên muốn mang tới sự bình an, no ấm nhất cho nhân dân, để có thể cùng nhân dân gánh bớt nỗi khổ, cực nhọc.

Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:

Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng nó vẫn toát lên được tình cảm, sự tin yêu và gắn bó của người chiến sỹ đối với toàn thể nhân dân. Từ “là” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiển nhiên giữa mình với nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, cùng gánh vác khổ đau, đương đầu với sóng gió, quyết không để lùi bước. ý thức ấy của tác giả thực sự đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Tác giả coi mình cũng như một người vô danh “cù bất cù bơ” nhưng có ý thức kết đoàn và kiên trung

Quả vậy, “Từ ấy” là bài thơ ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mệnh gieo neo. Tiếng reo vui của tác giả sử hòa chung vào với niềm vui chung của nhân dân.

14. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 14

Lý tưởng cách mệnh là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả quốc gia ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang trật của ông. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả thế tất, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên cách mệnh, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hoan hỉ mà rộn ràng Tố Hữu được lần trước hết đứng trong hàng ngũ của Đảng.

“Từ ấy” được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui tình thật, nô nức, đầy nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và phóng thích. Bài thơ “Từ ấy” được trích trong phần đầu “Máu lửa”, cả bài thơ là những dòng xúc cảm của Tố Hữu khi lần trước hết cảm nhận được lý tưởng lớn lao, niềm tự hào đứng trong hàng ngũ cách mệnh, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong thế cuộc của ông.

Về nhan đề “Từ ấy”, đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, xúc cảm, sự rung động, biến đổi khó quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng “từ ấy”. Chính mốc thời khắc ấy đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.

Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà tới năm mười hai tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông mới được tìm hiểu và được tiếp xúc với lý tưởng cách mệnh . Tới năm mười tám tuổi, khi được chính thức đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng, Tố Hữu mới hiểu rõ, lý tưởng cách mệnh đã thay đổi thế cuộc ông thế nào, để rồi từ đó, ông vui mừng, rộn ràng mà thốt lên rằng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần trước hết bắt gặp lý tưởng cách mệnh, ông ngập ngừng lên tiếng “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. “Từ ấy” là lúc nào? Phải chăng là lúc thi sĩ vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu được thế cuộc, chưa rõ phải bước đi về đâu, như ông đã viết trong “Dậy lên thanh niên” rằng:

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

chọn lựa một dòng hay để nước trôi”.

Cái “bâng khuâng” mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi “từ ấy”, trong lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tỉnh, rạng rỡ “nắng hạ”. Hình ảnh “nắng hạ” là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn còn đang trật của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một tuyến đường đúng đắn.

Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng cách mệnh như một “mặt trời chân lý”. Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy hàm ân của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, hàm ân.

Ông cũng liên tục sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng cách mệnh soi sáng đường đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất thần, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất thần như thế, đồng thời nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.

Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm tình thật, đặc biệt là câu thơ “mặt trời chân lí chói qua tim”. Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mệnh soi đường và thêm nữa là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, xúc cảm, tâm hồn thi sĩ. thi sĩ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim thi sĩ được sưởi ấm, được chiếu sáng rạng ngời.

Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

nếu như như trước đây, tâm hồn của người đội viên cách mệnh chỉ là những nỗi toan lo, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình và sáng tạo quá! Một tâm hồn đã giác ngộ cách mệnh giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn trề, rộn ràng khiến cho thi sĩ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng tạo biết bao!

Qua khổ thơ trước hết, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã tới với lý tưởng cách mệnh bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta.

Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của thi sĩ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người đội viên Cộng sản trẻ tuổi.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động nghèo vì vậy ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã trông thấy rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta chung của xã hội, của mọi người. Chính vì vậy, ông tự nguyện “buộc lòng” mình với “mọi nhà” để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với “bao hồn khổ” khác. Động từ “buộc” ở đây không tức là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.

Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, “trang trải” để tâm hồn mình được trải rộng ra với thế cuộc mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.

Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn “bâng khuâng” mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần kết đoàn, sự yêu thương dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của thi sĩ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được thi sĩ sử dụng “khối đời” là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung tình cảnh với nhau, cùng đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, kết đoàn chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống, quyền được độc lập tự do.

thi sĩ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với toàn cầu xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước thế cuộc nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để mô tả điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào ý thức kết đoàn của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con người.

Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn. Vậy nên nếu như như ở khổ trên, thi sĩ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận thức của mình thì ở đây, thi sĩ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ trong tình cảm của mình.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”.

Tấm lòng kiên trung của người đội viên trẻ muốn mang tới cho những lớp người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc. Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi người.

Ông tự nhận mình là “con”, “là em”, “là anh” của “vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu em nhỏ”. Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ bề trên mà ban ơn cho họ.

Động từ “đã là” cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi người và thứ tình cảm ấy nhịn nhường như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống, Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống tư nhân, vị kỷ vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán, so kè. có nhẽ chính cái lý tưởng cách mệnh ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.

thi sĩ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm tình thật. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng cách mệnh to lớn tới nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có lối sống tư nhân, biến họ trở thành những con người của cách mệnh, trở thành những thi sĩ của cách mệnh, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa tư nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn trong lớp những thi sĩ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …

Với thể thơ thất ngôn thân thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc chiết, thi sĩ đã viết lên một tác phẩm với những xúc cảm tình thật nhất để ngợi ca sức mạnh của lý tưởng cách mệnh. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hoan hỉ, vui sướng vô bờ của một chàng trẻ trai khi đang băn khoăn tìm lối đi cho thế cuộc thì bắt gặp được ánh sáng của cách mệnh chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với những mối quan hệ, với những tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của dân tộc. Ngôn từ trong thơ vô cùng tình thật, giản dị, hình ảnh thơ được so sánh, bộc lộ tư tưởng cách mệnh rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu trong thơ ca cách mệnh.

“Từ ấy” đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng lớn lao của thi sĩ Tố Hữu trên chặng đường cách mệnh. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi tìm được đường đi cho mình để từ đó, quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc, đó là tấm gương để lớp trẻ chúng ta noi theo.

15. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 15

Tố Hữu là một thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong thế cuộc cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc qua trọng trong thế cuộc của chính mình.

Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim.”

“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được sử dụng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời khắc vô cùng quan trọng trong thế cuộc của tác giả. Tại thời khắc đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả. Đó là khi tác giả được giác ngộ cách mệnh, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương – một bước ngoặt trước hết cũng là bước quan trọng nhất trong thế cuộc. Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” – một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lê-nin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một tuyến đường mới cho thế cuộc.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Nắm bắt được chân lý, tác giả sử tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu sử dụng giải pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả sử một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa – một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống. Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết.

tới khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh tư nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối kết đoàn. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “ trang trải tới trăm nơi”. Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận xấu số để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và viện trợ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người. Và đặc biệt, khi mọi người có ý thức kết đoàn, ý thức tương thân, tương ái, chở che cho nhau thì sẽ tạo điều kiện cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” – hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung tình cảnh, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “sắp gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn – một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.

Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.

“Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.”

Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong thế cuộc . Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người. Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời xấu số, đầy trắc trở đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. nếu như như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi tư nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết những giai cấp trong xã hội.

“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. những giải pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công phối hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.

Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang tới niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã trông thấy sứ mệnh của thế cuộc mình. tìm hiểu Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận đượ sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.

16. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 16

Bài thư từ ấy là cái mốc đánh dấu thời khắc (1937) của thi sĩ Tố Hữu, khi ông được kết nạp Đảng năm 1938. Qua tác phẩm của mình ông thể hiện giác ngộ khi gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Hay nó chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu – là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh.

Xuyên suốt bài thơ là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.

Mở đầu bài thơ ông đã diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng. Hai câu đầu viết theo văn pháp tự sự: Từ ấy trong tói….Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Từ ấy. là lúc thi sĩ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời chân lí cách mệnh soi sáng đường đời.

Hình ảnh ẩn dụ nắng hạ cho nguồn nhiệt lượng cách mệnh làm bừng sáng tâm hồn thi sĩ mặt trời chân lí là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ngợi ca ánh sáng diệu kì của cách mệnh. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim. Đón nhận ánh sáng cách mệnh là Tố Hữu đã đón nhận một tuyến đường thênh thang tươi sáng cho thế cuộc, cho hồn thơ: một thế cuộc có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mệnh, yêu đồng bào.

Tiếp nối mạch xúc cảm toàn bài thơ, khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức về lẽ sống. Hai dòng thơ mở đầu khổ hai: thi sĩ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi tư nhân với cái ta chung của mọi người.

Động từ buộc là một động từ mạnh thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua ranh giới của cái tôi để chan hòa mọi người “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”. Từ đó, tâm hồn thi sĩ vươn tới trăm nơi (hoán dụ) và trang trải sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, tình thật và tự nguyện tới với những con người cụ thể.

Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương của người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ: “Để hồn tôi với bao hồn khổ” và từ đó như một biện chứng mang cái thế tất là sức mạnh tổng hợp: “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm – thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: khi chúng ta cầm tay mọi người – quốc gia vẹn tròn, to lớn.

Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân. Khép lại bài thơ ở khổ cuối là: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn thi sĩ. Trước khi gặp cách mệnh, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản.

Khi ánh sáng cách mệnh như Mặt trời chân lí chói qua tim, đã giúp thi sĩ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn tới một tình yêu vẹn tròn to lớn. thi sĩ tự nhận mình là con của vạn nhà trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất, là em của vạn kiếp phôi pha sắp gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, xấu số, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương là anh của vạn đầu em nhỏ, cù bất cù bơ.

Từ những cảm nhận ấy đã giúp thi sĩ say mê hoạt động cách mệnh với những thiết tha cao đẹp cống hiến đời mình góp phần phóng thích quốc gia, phóng thích những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm.

Tóm lại hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm hàm ân sâu sắc cách mệnh. Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc tới chân trời tươi sáng. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một thi sĩ vô sản chân chính. Giọng thơ tình thật, sôi nổi, nồng nàn. Hình ảnh thơ tươi sáng, tiếng nói giàu tính dân tộc.

17. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 17

Tố Hữu là một thi sĩ đội viên, thơ của ông mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc. vượt trội cho phong cách thơ của Tố Hữu là bài thư từ ấy. Bài thơ là những chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn thi sĩ khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh cùng với tâm nguyện được cháy hết mình với lẽ sống, với tư tưởng cách mệnh cao đẹp ấy.

Bài thư từ ấy được sáng tác vào tháng 7 năm 1938, sau thời gian hoạt động phong trào thanh niên ở Huế, Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bài thơ được trích trong phần đầu “Máu lửa” của tập thư từ ấy, là những xúc cảm vui sướng, niềm hân hoán vị, rộn rực của người thanh niên trẻ khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh. Đây cũng chính là cột mốc quan trọng đánh dấu mốc son chói lọi tham gia cách mệnh của thi sĩ, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu.

Mở đầu bài thơ là tâm trạng hoan hỉ, vui sướng của thi sĩ khi bắt gặp lí tưởng cách mệnh:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

“Từ ấy” có nhẽ là khoảng thời gian mà thi sĩ bắt gặp ánh sáng, bắt gặp lí tưởng của cách mệnh. Không rõ là từ bao giờ, chỉ biết rằng từ khi thi sĩ Tố Hữu xung phong đi phong trào thanh niên, ông đã ý thức được sâu sắc nỗi nhục mất nước, nỗi căm ghét trước quân thù xâm lược. có nhẽ vì vậy mà khi được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng, tháng 7 năm 1938 thì Tố Hữu như tìm được lẽ sống cho chính bản thân mình, là tuyến đường để thi sĩ có thể tin tưởng, đi theo mà đấu tranh vì quê hương, quốc gia. Tố Hữu mô tả rất hay và giàu tính gợi hình: “Mặt trời chân lí” là thứ ánh sáng chói lọi, đẹp đẽ của Đảng đã khiến trái tim người đội viên bừng tỉnh, rộn ràng và vui tươi khi bắt gặp ánh sáng ấy. thi sĩ cảm thấy rộn rực và yêu đời hơn bất cứ lúc nào:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”

Tìm ra được lẽ sống của thế cuộc, tâm hồn thi sĩ như nở ra cả một vườn hoa xanh tốt, ngập tràn sức sống. Sức trẻ của tuổi thanh niên có nhẽ cũng không khiến tâm hồn thi sĩ rộn rực tương tự, chỉ có ánh sáng của Đảng, của cách mệnh mới có tác động thật mãnh liệt, thật lớn lao. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác làm mở ra cả những dư vị và âm thanh đang vang lên trong tâm hồn tươi trẻ của thi sĩ.

Khổ thơ thứ hai đã nói lên nỗi niềm muốn hiến dâng, muốn hòa mình vào cái tôi rộng lớn, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của thi sĩ Tố Hữu: rằng thi sĩ muốn vượt qua những cái tôi tư nhân ích kỉ, tầm thường để vươn tới với mọi người, sống chan hòa với nhân dân:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

Động từ “buộc” cho thấy ước muốn mãnh liệt và cháy bỏng của thi sĩ. nếu như như ở giai đoạn trước cách mệnh, Tố Hữu có phần đề cao cái tôi tư nhân của mình thì khi bắt gặp lí tưởng, ánh sáng của Đảng, thi sĩ khát khao mở lòng mình ra, để chia sẻ, hòa nhập với mọi người. thi sĩ muốn “để tình trang trải khắp nơi”, muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ/ sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời” là ước muốn được thấu hiểu, sẻ chia với những người xung quanh. Ông muốn quên đi cái tôi vị kỷ để hướng tới cái ta chung, giống như cái cách muốn hòa mình vào thiên nhiên với tình yêu quốc gia mà ta đã bắt gặp trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của thi sĩ Thanh Hải:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.”

Để dân tộc thêm kết đoàn, để sức mạnh của quân và dân hạ gục được quân thù thì trước kết mỗi người phải hạ thấp cái tôi tư nhân của mình để cống hiến, hòa nhập vào cái ta chung của cả dân tộc. Ý thơ mang đậm cái tôi trữ tình sâu sắc của tác giả.

Theo chân mạch xúc cảm ấy, Tố Hữu muốn khẳng định mình sẽ là sợi dây gắn kết với mọi người:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.”

Điệp từ “là” được lặp lại ba lần cho thấy sự khẳng định chắc chắn của tác giả trước tình cảm của mình đối với non sông, quốc gia. Tố Hữu tự nhận mình là “con của vạn nhà”, “em của vạn kiếp phôi pha” và “anh của vạn đầu em nhỏ”. Đó là những thứ tình cảm ruột thịt, gắn bó sâu sắc giữa con người với con người, cùng là truyền thống đạo lí “Thương người như thể thương thân” của người dân Việt Nam. Ước muốn của thi sĩ đã đạt tới mức cao cả, vĩ đại khi Tố Hữu không còn nhớ tới cái tôi tư nhân của tầng lớp tiểu tư sản trước kia để gắn bó với mọi người. Tóm lại khổ thơ thứ ba là lời bộc bạch và tâm nguyện cao đẹp của thi sĩ dành cho quốc gia khi giác ngộ lí tưởng cách mệnh. Lời thơ tha thiết, bổi hổi mà cũng sâu lắng, đi vào lòng người.

Trong biết bao những bài thơ đậm nét phong cách Tố Hữu, Từ ấy có nhẽ là minh chứng sáng rõ nhất cho tuyên ngôn nghệ thuật của thi sĩ này. Cũng từ đó mà ta thấy được cái tài năng trong việc viết những sự kiện chính trị không hề khô khan mà đậm chất trữ tình sâu sắc của tác giả.

18. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 18

thi sĩ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành được biết tới là thi sĩ tiên phong cho nền thơ cách mệnh Việt Nam. thi sĩ Tố Hữu cũng là đồng chí tham gia cách mệnh sôi nổi và yêu nước. Thơ của ông đậm chất trữ tình, đằm thắm đồng thời cũng có yếu tố chính trị đan xen.

Cả thế cuộc của thi sĩ Tố Hữu đã cống hiến cho thi ca nước nhà thể hiện được lòng yêu nước, ngợi ca nhân dân và khuyến khích ý thức cách mệnh. Khi nhắc tới thi sĩ Tố Hữu thì không thể không nhắc tới những tác phẩm thi ca nổi tiếng như tập thơ Máu và hoa, Ra trận…Bài thư từ ấy thể hiện được sự phấn khích, hồ hởi của một thanh niên đã được giác ngộ lý tưởng cách mệnh.

Bài thư từ ấy được trích dẫn từ tập thơ Máu lửa đây cũng là bài thơ được coi là hay và độc đáo nhất tập thơ của thi sĩ Tố Hữu. Khổ trước hết chính là niềm vui hoan hỉ của người thanh niên Kim Thành được đứng trong lực lượng của Đảng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim’’

Tác giả sử dụng động từ “bừng’’ là một động từ mạnh và đột ngột. Tự nhiên “bừng’’ lên nắng hạ. Nắng hạ là nắng gay gắt và mạnh nên tác giả sử dụng động từ “bừng’’ ở đây để mô tả việc được giác ngộ cách mệnh Đảng ở đây thật sáng tạo. Khi thi sĩ Tố Hữu hoạt động sôi nổi ở Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Huế được 1 năm thì thi sĩ đã được đứng trong lực lượng Đảng là những người tiên phong và kiểu mẫu.

Hình ảnh mặt trời chân lý chính là hình ảnh ẩn dụ cách mệnh của Đảng. Động từ “chói’’ là động từ thể hiện sự chói lọi mạnh mẽ như sự chiếu sáng cho mọi vật. Vậy câu thơ chính là lời kể tâm sự của một người thanh niên cảm nhận được lý tưởng chân lý Đảng đúng đắn và rạng ngời.

Chói qua tim chính là chói vào trái tim của người lính yêu nước. Người lính khi được giác ngộ tư tưởng sáng ngời ấy thì sẽ một lòng yêu nước và tận trung với dân. Vì được đứng trong lực lượng cách mệnh mà tác giả cảm thấy vui mừng khôn tả để viết được những dòng thơ đầy xúc động. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện tâm hồn tươi đẹp và hồn nhiên của thi sĩ được so sánh như sau:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim’’

Tâm hồn của người con trai lúc tuổi mười tám đôi mươi thật đẹp biết bao khi được ví như vườn hoa lá. Một vườn hoa lá đâm chồi nảy lộc bừng sắc hương cũng giống như sức lực thời trẻ trai dồi dào và đầy nhiệt huyết. Hình ảnh còn được ví von thêm với những hình ảnh xinh đẹp khác đó là có thêm tiếng chim và rất đậm hương. Một khu vườn đầy hoa lá và có thêm tiếng chim hót líu lo và có mùi hương của những loài hoa thì còn gì đẹp bằng!

Liên tưởng từ hai câu thơ đầu với hai câu thơ này chúng ta có thể diễn đạt một ý của tác giả đó là nhờ có ánh sáng, lý tưởng cách mệnh Đảng thì tác giả mới chợt trông thấy được một điều kỳ diệu như một thứ ánh sáng mà tác giả chưa được thấy bao giờ. Nhờ có ánh sáng ấy mà tâm hồn người đội viên được tươi trẻ và có thêm biết bao sức sống.

Đúng là hồi còn trẻ người ta sẽ có rất nhiều ước mơ hoài bão muốn được thực hiện nhờ đây đã có lý tưởng của cách mệnh soi đường thì bao nhiêu khó khăn vất vả cũng sẽ sớm vượt qua. Khổ thơ thứ hai trong bài thư từ ấy chính là sự giác ngộ lý tưởng để có thể hình thành nên được những tư tưởng lớn:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm vạn khối đời’’

Khổ thơ gợi lên biết bao nhiêu sự suy tư về cái tôi tư nhân rộng lớn mông mênh và muốn nguyện gắn kết với mọi người. Động từ “buộc’’ chính là động từ thể hiện sự gắn kết thắt chặt giữa tấm lòng tác giả với mọi người. Khác với động từ “buộc’’ trong bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu động từ buộc được sử dụng như một nét chấm phá và có ước vọng được vạn vật ngừng lại:

“Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi’’

Động từ buộc được tác giả Tố Hữu sử dụng rất khéo và hay khiến cho người đọc cảm thấy dễ sắp và thân thiết. nhịn nhường như tác giả cảm nhận được khi mình đứng trong lực lượng cách mệnh của Đảng thấy có trách nhiệm hơn thấy yêu thương những người dân đất Việt phải chịu những nắng mưa cùng cực. Tác giả nguyện khổ cùng đồng bào để sắp gũi như một khối đại kết đoàn: “sắp gũi nhau thêm vạn khối đời’’.

Từ lý tưởng muốn được nguyện hi sinh khó khăn gian khổ cùng đồng bào thì khổ thơ cuối cùng cũng chính là sự thể hiện vị thế của mình:

“Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ’’

Khổ thơ cũng chính là sự thể hiện bản thân tác giả sẵn sàng xông pha vào những vấn đề nguy hiểm để có thể hoàn thành trọng trách của mình. Điệp từ “là’’ chính là sự nhấn mạnh mối quan hệ giữa tác giả và nhân dân. Tác giả vừa là người em của vạn kiếp phôi pha, gian khổ nhưng cũng sẵn sàng chở che dạy bảo cho những người em nhỏ.

Những người em nhỏ chính là những người cũng được giác ngộ ý thức cách mệnh là những người đi sau tiếp nối bước chân của thi sĩ Tố Hữu. Dù có phải chịu cảnh không nhà không cửa hay thiếu thốn đủ bề thì tác giả vẫn khẳng định mình sẽ kiên trung một lòng yêu nước, vì khối đại kết đoàn dân tộc. Khối đại kết đoàn đó bao gồm nhân dân, đội viên cách mệnh dưới sự lãnh đạo của cách mệnh và tầng lớp người lao động. Ba giai cấp nhưng luôn hướng chung về một mục tiêu giữ gìn độc lập tự do cho nhân dân.

Bài thơ chính là lời reo vui sướng của một chàng thanh niên trẻ được giác ngộ lý tưởng cách mệnh với sứ mệnh lớn là bảo vệ độc lập tự do cho nhân dân mà không quản nguy hiểm hay gian khổ. Bài thơ chính là những lời dạy của của người thế hệ đi trước dành cho những người tiếp nối đi sau phải luôn phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng để bảo vệ dân tộc Việt Nam.

19. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 19

Tố Hữu ngọn cờ đấu tranh của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Tiếng thơ của ông mang đậm chất trữ tình, chính trị. Cả đời thơ Tố Hữu nhịn nhường như chỉ ngợi ca Đảng, chưng Hồ và nhân dân Việt Nam. Đọc thơ ông ta thấy từng sự kiện lịch sử được hiện lên, trong đó một mốc son quan trọng đánh dấu thế cuộc cách mệnh thi sĩ là khi ông chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” đã tình thật ghi lại xúc cảm vui tươi, sung sướng và lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mệnh.

Bài thơ mở đầu cho tuyến đường cách mệnh và tuyến đường thi ca của Tố Hữu được rút ra ở tập thơ “Từ ấy”_tập thơ đầu tay của Tố Hữu là tiếng hát say mê, trong trẻo của người thanh niên cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: máu lửa, xiềng xích và phóng thích.“Từ ấy”nằm trong phần máu lửa.

Trước khi bắt gặp ánh sáng cộng sản Tố Hữu cũng như biết bao người thanh niên trí thức Việt Nam mù mịt không lí tưởng, không xác định được hướng đi cho mình. Đúng như ông đã từng nói trong bài thơ “Nhớ đồng”:

“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, thương ôi, bước chẳng rời”

Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng, tham gia vào Đảng 7/1938 “Từ ấy” nhấn mạnh mốc thời gian trong đời, “mốc son đáng nhớ trong tâm hồn người thanh niên tuổi mười tám đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống dám làm dám đấu tranh”. Mở ra cho tác phẩm là tâm trạng vui tươi, sung sướng của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

“Nắng hạ”, “mặt trời” là những hiện tượng tự nhiên được thi sĩ nhắc tới với một niềm thành kính thiêng liêng. Nắng hạ và mặt trời là hai nguồn sáng ấm nóng, rực rỡ, bất diệt chiếu sáng cho mọi nguồn sống của vạn vật trên trái đất. Hình ảnh ấy được sử dụng theo lối ẩn dụ để chỉ ánh sáng cách mệnh của Đảng. Tác giả sử dụng những động từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh, có ấn tượng với người tiếp nhận. Cũng tương tự lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất thần tới xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa mà thi sĩ đã trải qua. Tố Hữu nhận thức điều đó không chỉ bằng lí trí mà còn cảm nhận bằng trái tim của người đội viên. Để giờ đây tác giả cảm thấy:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Ở đây tác giả có sử dụng phép so sánh ngầm không ngừng từ “như” thay vào từ “là”. Tố Hữu lột tả niềm vui sướng tột cùng sự say mê mãnh liệt trong tâm hồn, hạnh phúc của bản thân khi đón nhận lí tưởng của Đảng. Nó như phép nhiệm màu làm xanh tươi lại khu vườn tâm hồn của tác giả. Tôi bỗng băn khoăn không biết liệu có phải trước đó khu vườn có khô héo, tàn úa quá chăng sao thi sĩ reo vui tới thế? Giờ đây nơi ấy tràn đầy sức sống có sắc màu, có hương thơm hoa lá, nổi tiếng reo vui của chim ca. Niềm vui như hòa vào tiếng chim để rồi thi sĩ thấy “nhẹ nhõm như con chim cà lơi/ Say đồng hương nắng vui ca hát”. Tố Hữu đã từng viết: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tuổi xanh của mình”. Tố Hữu đã đựng lên tiếng nói, tiếng hát, sự cảm nhận chung cho những thanh niên trí thức bấy giờ. Đó là âm điệu ca hát cho lí tưởng cách mệnh. tương tự khổ thơ đầu chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng hàm ân Đảng đã khai sáng cho tâm hồn mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.

Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản thi sĩ tình thật bộc bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mệnh:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người đội viên cách mệnh xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại thảm kịch cho cái chết. Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần chúng. chưng Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, ý thức gắn bó “cái tôi” tư nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn thi sĩ trải rộng ra với thế cuộc, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời. Tố Hữu luôn luôn sắp gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, xấu số với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là “Em bé mồ côi”, là “Lão tôi đòi”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh khốn cùng trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì thi sĩ càng căm hờn kẻ đã gây ra tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, khốn cùng bấy nhiêu, càng thôi thúc thi sĩ gắn bó và đấu tranh vì sự nghiệp cách mệnh phóng thích dân tộc. Tố Hữu đã từng nói: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số” để “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Khối đời là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mệnh cũng là để chỉ ý thức kết đoàn của đồng bào Việt Nam, mỗi người cán bộ, đội viên, mỗi người dân cùng chung tay làm nên sức mạnh của toàn dân tộc, là ý thức yêu nước của nhân dân ta đã nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước. Khổ thơ đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường, cũng thể hiện niềm tin, niềm hạnh phúc vào khối đời dân tộc, vào tuyến đường cách mệnh nước nhà. Tố Hữu đã từng đựng lên tiếng hát ngợi ca chưng và lí tưởng của Đảng:

“Từ vô vọng mênh mông đêm tối

Người đã tới chói chang nắng dọi

Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu

Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu”

Từ những nhận thức mới mẻ sâu sắc ấy trong tư tưởng người thanh niên trẻ tuổi đã có sự chuyển biến về tình cảm, từ số phận của trí thức tiểu tư sản chuyển sang người trí thức cộng sản. Giờ đây tác giả tự đặt mình vào trong gia đình dân tộc Việt nam bình tình cảm ruột thịt tình thật:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

thi sĩ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”. Cách sử dụng điệp từ “là”, “của” phối hợp với những danh xưng “con”, “em”, “anh” và hàng loạt những từ chỉ số lượng nhiều: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” thi sĩ bộc lộ tình cảm của mình gắn bó với nhân dân như anh chị em ruột thịt trong gia đình, đó là tình hữu ái giai cấp, yêu thương dành cho những con người đồng khổ. Ông đã từng viết:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau”

Hay thi sĩ đã từng lột tả niềm vui sướng tình thật của mình khi được trở về với nhân dân trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

tương tự ta có thể thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của thi sĩ cách mệnh với quần chúng nhân dân Việt Nam. Chính điều đó làm cho thơ ông thật sắp gũi, thân yêu.

Cả thế cuộc “Tố Hữu vừa làm cách mệnh vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mệnh, và làm cách mệnh để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mệnh có sức tác động, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao thi sĩ lãng mạn khác. Như ta từng biết Tố Hữu xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản nên cái tôi tư nhân rất cao với lối sống ích kỉ nhưng ông đã vượt qua được rào cản giai cấp để hòa mình vào cái ta chung của cộng đồng. Mỗi một tác phẩm của ông là một sự kiện cách mệnh ghi được dấu đúng như chủ toạ Hồ Chí Minh đã từng nói:

“Nay ở trong thơ nên có thép

thi sĩ cũng phải biết xung phong”

Mỗi một thi sĩ cách mệnh cũng phải là một người đội viên trên mặt trận văn hóa tư tưởng và Tố Hữu ngay từ khi mới vào mặt trận ấy đã dành được vị trí vững chắc xứng đáng là “Một viên ngọc trong nền văn học Việt Nam”.

“Tố Hữu nhìn cách mệnh bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ngợi ca cách mệnh”. “Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về lí tưởng cách mệnh, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ trong tình cảm của người đội viên cộng sản.

20. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 20

Tố Hữu làm thơ chính trị mà rất đỗi trữ tình, nhận định ấy của Xuân Diệu đã phần nào cho thấy nét đẹp nhuần thấm cũng như sự đặc sắc riêng trong thơ chính trị của Tố Hữu, nét riêng ấy phần nào đã được thể hiện trong bài thư từ ấy.

thiên hướng chính trong thơ Tố Hữu là thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngay từ những dòng thơ mở đầu người đọc đã thấy tâm hồn thi sĩ trong người đội viên Tố Hữu:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim..”

“Từ ấy” đánh dấu mốc thời gian Tố Hữu chính thức được đứng trong hàng ngũ của Đảng, với chàng trai tuổi hai mươi ấy đó nhịn nhường như là khoảnh khắc lịch sử khi nó đánh dấu sự trưởng thành của ông khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được góp sức vào công cuộc cứu nước, được hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc. Giây phút hạnh phúc và niềm hoan hỉ vỡ òa ấy được ví von so sánh bằng một hình ảnh vô cùng giản dị mà rét mướt, tươi đẹp “tâm hồn tôi là một vườn hoa lá”, tâm hồn ấy bừng sáng khi được mặt trời chân lí chói qua tim, rộn ràng nô nức và hoan hỉ trước giây phút vinh quang này. Tâm hồn rất đậm hương và rộn tiếng chim, nhờ so sánh ấy, người đọc cũng như có cảm giác rằng niềm vui say trong ánh mắt, trong điệu hồn của nhân vật như làm tươi vui và náo nhiệt cả thiên nhiên, cả thiên nhiên nhịn nhường như cũng đang nhảy múa không ngừng trước bước chuyển mình lịch sử ấy của người đội viên cộng sản. Đó là bước chuyển đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự bế tắc mất phương hướng tới khi tìm được lí tưởng chiếu rọi, tìm đường tuyến đường để theo đuổi và nhận thấy giấc mộng lớn của mình hòa chung vào niềm tin phấn khởi của cả dân tộc. Và chính sự giác ngộ ấy đã hình thành nên trong tâm hồn người đội viên cộng sản nhưng tình cảm lớn, lí tưởng lớn tươi đẹp biết bao:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mảnh khối đời”

Muốn sử dụng sự yêu thương để cùng đùm bọc, cưu mang, chở che với biết bao hồn khổ. Lí tưởng ấy, phải chăng chính là sự kế thừa nhuần nhuỵ trong ý thức dân tộc Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, là đạo lí truyền thống tươi đẹp, cao cả của dân tộc. vậy nên mới nói, thơ Tố Hữu thường hướng về những lẽ sống lớn tình cảm lớn của dân tộc. Điều ấy khơi gợi được sự đồng cảm, đồng thời đánh thức lại lòng nhân đạo trong tâm hồn mỗi con người, trong khi cuộc sống ngày càng phát triển sự rạn nứt nhỏ trong mối quan hệ giữa con người ngày càng rõ rệt. Đó là lẽ sống mà Tố Hữu theo đuổi, lẽ sống như một ngọn đèn soi đường cho người đội viên cách mệnh, để tới cuối khổ thơ, thi sĩ khẳng định chắc nịch:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”

Người con của tổ quốc giờ đây không còn cảm thấy đơn chiếc, mất phương hướng, mà đã gắn kết với cả một tập thể cộng đồng, đó không phải đơn thuần là sự hòa nhập, mà là sự lựa chọn lựa được đồng cam cộng khổ, cùng nếm mật nằm gai, được lắng tai tiếng nói của những con người nhỏ bé, vô danh. Điệp ngữ xuất hiện liên tục trong khổ thơ càng cho thấy tâm thế của người đội viên cộng sản một lời khẳng định, hay là một lời tuyên bố về lẽ sống lí tưởng cao đẹp của mình.

Từ ấy là khúc ca tươi vui, như bản nhạc tâm hồn rộn ràng của người đội viên say mê lí tưởng cộng sản cao đẹp, đồng thời khẳng định được những lẽ sống lớn, tình cảm lớn mà nhân vật theo đuổi.

21. tìm hiểu bài thư từ ấy – mẫu 21

Trước cách mệnh tháng Tám năm 1945, thơ Mới bùng nổ mạnh mẽ với cái tôi tư nhân cởi bỏ mọi ràng buộc trở thành trung tâm của vũ trụ. Tâm trạng bao trùm thơ Mới là nỗi buồn của một thảm kịch “ thiếu một niềm tin đầy đủ”. Thế nhưng, giữa lúc những thi sĩ Mới còn đơn chiếc, bế tắc trong nỗi buồn vô vọng, trong tình yêu bất trắc và cõi siêu hình bồng lai thì, Tố Hữu với tác phẩm “ Từ ấy” đã đựng lên tiếng hát ngợi ca lí tưởng cách mệnh, thể hiện cái tôi gắn bó với xã hội, với nhân dân.

Thơ Tố Hữu là tiếng hát, tiếng reo vui, là mùa xuân và rạng đông, là trời xanh và gió lộng… Thơ ông trìu mến tâm tình, ngọt ngào như giọng cô gái Huế, như là những tiết điệu của núi non sông nước rất đỗi dịu dàng, thơ mộng. Thơ ông là những vần thơ trữ tình chính trị lấy cảm hứng từ những sự kiện lịch sử cách mệnh thường được diễn đạt bằng tiếng nói bình dị, giọng điệu sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết. Qua tác phẩm “ Từ ấy”, tác giả đã thể hiện hình ảnh người thanh niên với trái tim tuổi hai mươi căng tràn sức sống đã tới với cách mệnh bằng niềm phấn khích của người vừa tìm thấy tuyến đường lí tưởng cho đời mình.

Ngay nhan đề “ Từ ấy”, người đọc như thấy được trái tim hồn hậu tình thật của thi nhân đang reo vang những khúc ca yêu đời, say mê lí tưởng. “ Từ ấy” gợi lên thời khắc lịch sử có thật trong thế cuộc thi sĩ – tháng 7/1938 khi Tố Hữu được vinh dự đứng vào hành ngũ cách mệnh, được đấu tranh cho lí tưởng dân tộc. thời khắc ấy đã để lại dấu ấn quan trọng có bước ngoặt cho đường đời, đường thơ ông; gắn bó, chi phối tới toàn bộ tâm trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm của cái tôi thi sĩ.

“Từ ấy” không phải là lúc “ Anh nắm tay em sôi nổi vụng về về” mà chính là thời khắc bén duyên với cách mệnh để hình thành một tâm hồn thuộc về lẽ sống lớn, niềm vui lớn của con người. Cánh cửa “ Từ ấy” trở nên kì diệu, thiêng liêng bởi nó đã khai sinh cho chúng ta một thi sĩ lớn, đã mở ra những điều mới mẻ, lạ lẫm bất thần chưa từng có trước đó:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Khổ thơ đã thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của Tố Hữu khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh. Lí tưởng ấy như một nguồn sáng chói lòa xua tan đi cái âm u của những tháng ngày tăm tối; niềm hoan hỉ sung sướng trái ngược với những u buồn, ngán ngẩm:

“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời.”

Hai hình ảnh ẩn dụ “ nắng hạ”, “ mặt trời chân lý” cùng hai động từ “ bừng”, “ chói” đã thể hiện sức sống dồi dào, mãnh liệt về lí tưởng và sức tác động lớn lao, mạnh mẽ, bất thần của nguồn ánh sáng chân lý. Lý tưởng của Đảng lay động cả trái tim và khối óc thi sĩ, thấu vào mọi ngõ ngỏng trong tâm hồn và lí tưởng tác giả, nó là một chân lý lớn lại gặp một tâm thế đón nhận mong mỏi nên phút giây giác ngộ bừng lên mạnh mẽ, phi thường. Tâm hồn thi nhân rộn ràng, náo nức như “ một vườn hoa lá” căng tràn sức sống:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Hình ảnh so sánh “ hồn tôi” với “ vườn hoa lá” “ rất đậm hương và rộn tiếng chim” đã thể hiện niềm vui, phấn khởi của thi sĩ. cách mệnh đã soi đường cho người đội viên trẻ bắt gặp ánh sáng của “ mặt trời chân lý”, tâm hồn người thanh niên bừng dậy sức sống như một vườn cây đầy sắc hương với vẻ tươi xanh của cây lá, với thanh âm rộn ràng của chim ca. Đối với vườn hoa lá thì có gì đáng quý hơn mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời thì còn gì đáng quý hơn một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?

Đặt trong hoàn cảnh quốc gia những ngày “ ngẩng đầu lên, không thấy mặt trời/ Đất lai láng những là nước mắt” ta mới thấy rõ niềm hoan hỉ tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ. Lớn lên trong cảnh quốc gia nô lệ “ bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước / Nên chọn lựa một dòng hay để nước cuốn trôi” để rồi bao băn khoăn vẩn vơ bế tắc phút chốc xoá tan bởi “ Mặt trời chân lý chói qua tim”.

Sau những giây phút đầy hào hứng và vui mừng, tâm trạng nhân vật trữ tình tạm lắng xuống, suy tư hơn:

“Tôi buộc hồn tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

Khổ thơ hai đã thể hiện nhận thức mới về đời sống, về lẽ sống của thi sĩ Tố Hữu. Động từ “ buộc” là ý thức trách nhiệm, sự tự nguyện sâu sắc, quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt lên giới hạn cái tôi tư nhân để sống chan hòa với mọi người. thi sĩ “trang trải” mối tình rộng mở để cùng đồng cảm, sẻ chia, để trải rộng tới thế cuộc.

Tình yêu thương của thi sĩ không phải thứ tình cảm chung chung mà là tình hữu ái giai cấp, là sự quan tâm tới quần chúng nhân dân lao khổ với bao số phận đang quằn quại đớn đau, đang vật vã trong bế tắc. Trong nhận thức thi sĩ, mọi người hoà hợp, yêu thương cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối kết đoàn của những con người chung tình cảnh, chung hận, chung tương lai. Khi cái tôi chan hòa trong cái ta, khi tư nhân hoà mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ được nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã tự nguyện gắn bó cái tôi tư nhân với cái ta chung của mọi người bằng tình cảm yêu mến và sự giao cảm của những trái tim:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của mọi kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.”

Đối với thi sĩ, tình cảm giai cấp với quần chúng nhân dân lao khổ đã trở thành tình thân yêu ruột thịt. Trong một đại gia đình lớn, anh đã là “ con”, là “em”, là “anh”. Giác ngộ lí tưởng thực sự hoá thành tình cảm và hành động cụ thể. Ở đây không phải “sẽ” mà là “ đã”, tình cảm yêu thương gắn bó ruột thịt đã hiện hữu tràn trề trong từng lời thơ.

thi sĩ đã thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót khi nhắc tới những kiếp phôi pha và những em nhỏ giãi dầu. Họ là những con số rất đông đảo, được điệp đi nhấn lại trong những ý thơ: vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ. Họ là một tập thể giống nhau ở nỗi khổ không áo cơm, “cù bất cù bơ”. Họ là phần nhân dân đớn đau rên siết dưới ách xâm lược nay đã liên hợp lại để trở thành một sức mạnh chung, sức mạnh của những con người khổ đau muốn vùng dậy phá tan xiềng xích.

Trong tập thơ “Từ ấy” và trong cả đời thơ, đời cách mệnh của mình, biết bao “kiếp phôi pha” đã đi vào thơ ông đầy xót xa, nhức nhối. Đó là cô gái giang hồ, là chú bé đi ở, là ông lão tôi đòi khốn khổ, là em bé bán bánh dạo trong “Một tiếng rao đêm”. Cho nên có thể nói, “ tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm thấy trong tế bào này, anh là thi sĩ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại.”(Chế Lan Viên)

“Thơ Tố Hữu là thơ cách mệnh chứ không phải thơ tình yêu… nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh nói những vấn đề bằng trái tim của người say đắm.” Và niềm say đắm ấy bộc lộ qua một thể thơ trữ tình chính trị đặc sắc. Với ngòi bút tinh tế, sử dụng hình tượng thơ táo tợn, sánh chói, gợi tả, giàu tính lãng mạn, say người với khát vọng bay bổng, câu thơ mạnh, xúc cảm tràn đầy, giọng thơ đằm thắm trẻ trung, nhạc điệu thơ hăm hở, dồn dập, say sưa lôi cuốn,…Tố Hữu đã để lại trong lòng người những dư vị ngọt ngào, những ấn tượng khó quên về tiếng hát thơ “Từ ấy” lạc quan say đắm lí tưởng của người thanh niên giác ngộ.

Bài thơ “Từ ấy” là tuyên ngôn về nhận thức và sáng tác của Tố Hữu đồng thời cũng là tuyên ngôn cho toàn bộ tập “Từ ấy” nói riêng và toàn bộ sáng tác nói chung. Tuyên ngôn ấy trở thành bản nhạc của một tâm hồn lạc quan, yêu đời, đựng lên nốt nhạc làm rung động hàng triệu trái tim thanh niên vì chất men nồng lí tưởng.

Trên đây là những bài văn tìm hiểu bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu hay do lực lượng Trường THPT Phạm Hồng Thái tổng hợp. Hy vọng bài viết sẽ giúp bạn có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thiện bài văn hay hơn và đạt điểm cao.

Năm 2023 là năm con gì? Mệnh gì? Tuổi Quý Mão hợp Tuổi nào?


Tags:
tìm hiểu bài thư từ ấy ngắn gọn nhấttìm hiểu từ ấy khổ 1mở bài từ ấybài thư từ ấytìm hiểu 2 khổ đầu bài từ ấytìm hiểu từ ấy học sinh giỏitìm hiểu từ ấydàn ý tìm hiểu bài thư từ ấy

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *