Những tác phẩm, đoạn trích trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du để phân tích hay là điều khá khó khăn đối với tất cả các bạn học sinh, điển hình như đề bài: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên. Hiểu được tâm lý đó, Trường THPT Phạm Hồng Thái sẽ gợi ý đến các bạn dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và bài văn mẫu phân tích. Cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé
Cách lập dàn ý chi tiết phân tích 12 câu đầu Trao duyên đúng nhất.
1.Mở bài phân tích 12 câu đầu Trao duyên:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
- Giới thiệu 12 câu thơ đầu đoạn trích.
2.Thân bài phân tích 12 câu đầu Trao duyên:
- Hai câu đầu: Thúy Kiều cậy nhờ Thúy Vân
- “Cậy”: cậy nhờ, thỉnh cầu, trông mong được giúp đỡ.
- “Chịu”: thể hiện tình cảm khẩn thiết, cầu xin em, đặt Thúy Vân vào tình thế khó lòng từ chối.
- Hành động “lạy”, “thưa” kết hợp cùng lời nói của Kiều cho thấy được sự khéo léo, chân thành của nàng khi nhờ cậy em.
- “Mặc em”: sự tin tưởng, mong cầu Vân sẽ cùng chàng Kim kết lại keo loan bền chặt.
- Sáu câu tiếp: Thúy Kiều nói về hoàn cảnh éo le của mình
- Điệp từ “khi” kết hợp với các cụm động từ “gặp chàng Kim”, “quạt ước”, “chén thề” cho thấy tình yêu bền chặt, thắm thiết của Kiều – Kim.
- “Sóng gió bất kì”: hiện thực phũ phàng, sóng gió ập gia đình.
- Để trọn đạo làm con, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em, vậy nên mà dang dở tình yêu.
- Mong em hiểu cho hoàn cảnh éo le của mình.
- Bốn câu cuối: Thúy Kiều dùng lời lẽ thuyết phục Thúy Vân nối duyên với chàng Kim
- Kiều đã khéo léo đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục Vân.
- Vân còn trẻ, có thanh xuân: “tuổi xuân em hãy còn dài”.
- Hãy vì tình cảm ruột thịt: “xót tình máu mủ” mà thay chị nối duyên.
- Nếu được Vân chấp thuận thì dù có phải chết, Kiều cũng an lòng.
- Từng lời lẽ của Thúy Kiều thốt ra đều hợp lẽ, hợp tình, Kiều dằn lòng chịu nỗi đau thương, chịu phần thua thiệt về mình, chỉ mong Vân nối duyên cùng Kim Trọng.
- Đánh giá:
- Đoạn thơ đã cho thấy bi kịch tình yêu cùng nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
- Qua trên ta có thể thấy được tài năng miêu tả nội tâm nhân vật độc đáo của Nguyễn Du.
3. Kết bài phân tích 12 câu đầu Trao duyên:
Khẳng định lại giá trị đoạn thơ, tài năng nghệ thuật của tác giả.
Giới thiệu sơ đồ tư duy phân tích 12 câu đầu Trao Duyên khoa học nhất.
Để có thể nắm bắt và hiểu hết các kiến thức thì các bạn hãy đọc sơ đồ tư duy phân tích 12 câu đầu Trao Duyên khoa học nhất mà chúng tôi muốn gửi đến bạn.
Hãy tham khảo sơ đồ này nhé để có cái nhìn sâu sắc hơn về kiến thức của đoạn trích Trao duyên.
Văn mẫu số 1: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên hay nhất.
Nhà thơ Nguyễn Du là một đại thi hào của nước ta. Ông đã để lại nhiều bài thơ hay bất hủ vượt qua mọi sự cách trở của thời gian. Trong đó, Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng kiệt xuất của tác giả Nguyễn Du.
Trong đó, đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích thể hiện tấn bi kịch trong lòng của nhân vật chính Thúy Kiều khi phải đấu tranh giữa bên hiếu, bên tình. Cuối cùng Thúy Kiều lựa chọn hy sinh thân mình để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình chuộc cha và em trai ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn trích Trao duyên nói lên sự bi kịch của người phụ nữ khi tình duyên dang dở, nhất là 12 câu thơ đầu trong đoạn trích đã khắc họa thành công sự đau thương trong lòng của Thúy Kiều:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
……
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Trong 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên này thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi làm chị nhưng lại phải nhờ vả cậy nhờ em mình. Những lời tâm sự rút gan rút ruột của Thúy Kiều cho thấy sự đau khổ của người con gái phải rời xa mối tình tâm đầu ý hợp của mình.
Khi tình duyên dang dở Thúy Kiều quyết định từ bỏ tình yêu, từ bỏ Kim Trọng để bán mình chuộc cha.
Thúy Kiều thương cho Kim Trọng sợ chàng sau khi mãn tang chú quay lại tìm nàng thì biết tin nàng bặt vô âm tín sẽ đau buồn lắm. Thúy Kiều là người suy nghĩ sâu sắc nên nàng đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay nàng chăm sóc an ủi Kim Trọng theo cách “Tình chị duyên em”.
Trong câu thơ “Cậy em em có chịu lời – Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự thành khẩn của Thúy Kiều khi gửi trao tâm nguyện của mình lại cho cô em gái Thúy Vân. Thể hiện tâm trạng vô cùng đau khổ của cô với việc lựa chọn này.
Trong mỗi câu thơ Thúy Kiều như đứt từng khúc rút để nói lại với em gái của mình. Thúy Kiều đã dùng những từ ngữ vô cùng sâu sắc như “Giữa đường đứt gánh tương tư” thể hiện sự bất lực không còn con đường nào lựa chọn, nên buộc lòng cô phải nhờ cậy tới Thúy Vân.
Dù muốn trao duyên của mình cho em gái nhưng trong lòng Thúy Kiều đè nặng những đau đớn, tương tư trong lòng. Bởi những kỉ niệm yêu thương ngọt ngào vẫn còn khắc cốt ghi tâm trong lòng Thúy Kiều.
Kim Trọng là người con trai mà Thúy Kiều thật lòng yêu thương, muốn trao gửi cả cuộc đời mình vào tay người con trai đó, cùng chàng đi tiếp chặng đường tương lai nhưng giờ phải lựa chọn từ bỏ trái tim nàng đau khổ như chết đi sống lại.
Trong 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên thể hiện sự bất lực, bất khả kháng của người con gái Thúy Kiều khi mà sóng gió gia đình bất ngờ ập tới khiến gia đình cô gặp cảnh tai biến không hiểu nguyên do từ đâu.
Trước người cha tuổi cao sức yếu và người em trai tình thân như thủ túc, Thúy Kiều là chị cả nàng không thể thấy cha và em mình bị giam cầm mà dửng dưng sống hạnh phúc bên người mình yêu, bỏ mặc sự sống chết của người thân.
Sự lựa chọn của Thúy Kiều cho thấy nàng là người vô cùng sâu sắc, hiếu thuận với cha mẹ, cũng là người có tình, biết lo lắng cho người khác, luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nghĩ cho người đó.
Trong khi đó bản thân nàng tương lai như thế nào nàng cũng không rõ, con đường phía trước mù mịt, mịt mờ nhưng nàng cũng cam tâm tình nguyện ra đi vì người thân.
Trong những câu thơ tiếp theo:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”
Thúy Kiều kể lại những kỉ niệm thời còn hẹn hò giữa nàng và Kim Trọng, mỗi câu thơ đều thể hiện sự tâm đầu ý hợp giữa hai người. Một mối tình trai tài gái sắc vô cùng đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì sóng gió, tai biến gia đình mà Thúy Kiều buộc lòng phải từ bỏ.
Thúy Kiều mong Thúy Vân vì tình cảm chị em máu mủ mà nhận lời nhờ cậy của mình, chăm sóc Kim Trọng thay mình, yêu thương chàng tiếp tục cùng chàng sánh duyên thay cho mình. Điều này cho thấy sự tình nghĩa của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng là vô cùng sâu sắc.
Chỉ với 12 câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi phải dứt tình ra đi, để giữ trọn chữ hiếu với gia đình, cứu những người thân của mình. Qua đó, nó cũng cho người đọc thấy được bi kịch nghiệt ngã của người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều nhưng phải chịu đau khổ, trong cuộc sống.
Văn mẫu số 2: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên ngắn gọn.
Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” mở ra mười lăm năm lưu lạc và số phận bất hạnh của nàng Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy đau thương ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không thể cầm nước mắt và cảm thương cho số phận nàng.
Mở đầu đoạn trích là lời cậy nhờ của Kiều với Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ “cậy” vốn giống chữ “nhờ” là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ “cậy” lại khác chữ “nhờ” ở sắc thái biểu cảm, “cậy” thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ.
Chữ “chịu” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ “nhận” ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời.
Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều – chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình.
Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trong là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều. Hành động “thưa” cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên.
Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em.
Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kỹ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lý và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.
Sau những lời mở đầu hết sức khôn khéo ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với em những điều thật lòng để thuyết phục em nhận lời trao duyên. Trước hết nàng tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”.
Những kỉ niệm tình yêu thật đẹp đẽ, sâu đậm mà nàng chỉ muốn giữ cho riêng mình, từ “khi” được lặp lại hai lần đã cho thấy rõ mong muốn đó. Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi, thực tại thật đau đớn và phũ phàng với nàng:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư” Kiều bị đặt vào tình thế lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Đau đớn và xót xa nhưng một người con có hiếu như nàng nhất định sẽ không chọn chữ Tình mà để cha mẹ phải đau khổ, nàng lựa chọn chữ Hiếu mà trái tim như vụn vỡ khi phải phụ lòng chàng Kim.
Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng, ngang trái làm tan vỡ. Nàng dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em và cũng là thuyết phục em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả chết ra để thuyết phục, dù có chết nàng vẫn “ngậm cười” vì hành động cao đẹp Thúy Vân đã nhận lời với mình. Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể chối từ lời đề nghị của chị.
Mặc dù vô cùng đau đớn khi phải trao duyên của mình cho em nhưng Thúy Kiều không hề quan tâm đến sự thua thiệt của bản thân mình, đến nỗi đau mà mình phải chịu đựng, lúc nào nàng cũng chỉ canh cánh một nỗi đau là đã phụ bạc Kim Trọng và tìm cách bù đắp cho chàng. Lời thuyết phục em của nàng vô cùng chân thành, cảm động.
Để tạo nên thành công cho lời thuyết phục trao duyên, ta cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về mặt nghệ thuật. Ngôn ngữ sử dụng tài tình, những chữ dùng đắt giá “lạy” “thưa” “cậy”,… có ý nghĩa quan trọng trong việc thuyết phục Thúy Vân. Lập luận, lí lẽ sắc bén vừa lí trí mà cũng vô cùng tình cảm.
Bằng lớp ngôn từ tinh tế, thông minh Thúy Kiều đã khiến em gái Thúy Vân phải nhận lời trao duyên. Qua đó ta thấy sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều. Đồng thời cũng thấy được tấm lòng thủy chung, người con có hiếu với cha mẹ của nàng Kiều. Đồng thời cũng cho thấy số phận đầy bất hạnh của nàng.
Văn mẫu số 3: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên chi tiết.
Truyện Kiều là kiệt tác thơ bằng chữ Nôm của thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm kể về cuộc đời và số phận của Thúy Kiều, người con gái tài sắc nhưng lại có số phận truân chuyên, bất hạnh. Thúy Kiều từng là một tiểu thư khuê các với cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che”, nàng cũng có một tình yêu thật đẹp với chàng thư sinh Kim Trọng.
Tuy nhiên biến cố ập đến bất ngờ, để cứu cha và em, Kiều đã bán mình cứu cha, làm tròn chữ hiếu của một người con, bỏ lỡ mối lương duyên với Kim Trọng. Để hiếu tình vẹn tròn, Thúy Kiều đã quyết định tình duyên với Kim Trọng cho em gái mình là Thuý Vân. Bối cảnh và tâm trạng Thúy Kiều khi trao duyên được thể hiện rõ nét qua 12 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên.
Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên chứa chan những lý lẽ, sự chân thành và cả niềm đau xót vô bờ của Thuý Kiều khi phải trao đi mối tình đầu sâu nặng của mình. Thế nên, khi mở đầu câu chuyện, mở đầu đoạn trích, khung cảnh hiện lên thật não nề làm sao:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Là một người chị trong nhà, vậy mà Thuý Kiều lại dùng những lời lẽ hết sức kính cẩn, hết sức thận trọng với em gái mình, nào là “cậy”, nào là “chịu lời”! Tại sao Kiều lại sử dụng những từ ngữ hết sức thành kình như thế?
“Cậy” tức là nhờ vả, thế nhưng Kiều không nói là nhờ em mà là “cậy em”. Lời thơ mang âm điệu nặng nề, mang cả sự gửi gắm đầy trân trọng của nàng dành cho em gái, gợi lên cả sự day dứt, đau xót khôn nguôi đang âm ỉ cháy trong lòng nàng.
Chỉ một chữ “cậy” ấy mà chứa chan bao sự mong đợi, hy vọng tha thiết của Kiều. “Cậy” em như thế, không biết em có “chịu lời” hay chăng? Từ “chịu” ở đây mang nghĩa là nhận lời, thế nhưng Kiều lại sử dụng từ “chịu” để đưa Thúy Vân vào thế khó, bắt buộc phải nhận lời, không thể từ chối.
m điệu tiếng thơ mang trong đó sự van xin, nài nỉ, thúc ép Thuý Vân phải nhận lời. Nguyễn Du đã để Kiều lên tiếng bằng những lời thơ thật day dứt, thật khẩn thiết, dồn ép Thuý Vân vào thế khó xử mà phải nhận lời.
Càng bất thường hơn khi Kiều hạ thấp vai vế của mình, để em gái ngồi lên ghế còn mình thì “lạy, thưa”. Hành động “lạy, thưa” vốn là hành động dành cho những bậc bề trên tôn kính, nhưng ở đây, Kiều lại dùng cho em mình, thật là bất thường, thật là khó hiểu!
Thế nhưng điều đó chẳng hề khó hiểu khi Kiều đang nhờ vả một việc lớn, liên quan đến hạnh phúc cả đời của em gái mình. Thái độ đó còn tạo nên một sự trang nghiêm, thiêng liêng đối với sự việc mà Kiều đang muốn cậy.
Thúy Kiều là người con gái thông minh, sắc sảo, điều này được thể hiện rõ nét qua lời nói và hành động nhờ cậy của nàng với Thúy Vân. Cách nói của Kiều mang đầy sự kính cẩn đối với một người có ơn với mình khiến cho người đó không thể từ chối.
Đồng thời, với cách sử dụng từ ngữ hết sức tài năng, Nguyễn Du còn khiến cho người đọc như cảm nhận được một nỗi đau xót vô bờ đằng sau mỗi lời nói và cử chỉ của Kiều.
Sau khi đưa ra lời cậy nhờ em gái, Kiều mới mở lời với Thuý Vân lý lẽ trao duyên của mình. Nàng nói:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Kiều đưa ra lý do đã khiến nàng phải làm như vậy, đó là vì chữ hiếu. “Đứt gánh tương tư” đây là thành ngữ chỉ sự dang dở trong tình yêu, và ở đây là tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng, Kiều đang muốn giãi bày hoàn cảnh của mình cho em gái hiểu, nàng vì cha, vì em mà phải bán mình, làm “đứt gánh” mối duyên cùng chàng Kim Trọng. Vậy nên, nàng muốn Thuý Vân “chắp mối tơ thừa” để thay nàng trả duyên cho chàng Kim.
Từ “mặc” ở đây không phải mặc kệ mà là phó mặc, là uỷ thác. Kiều hiểu rằng chấp nhận chuyện này sẽ khiến em gái nàng thiệt thòi bởi giữa Thuý Vân và Kim Trong chưa hề có tình yêu. Những lời thơ thống thiết chứa đựng nỗi đau đớn xé lòng của Thuý Kiều, nỗi quằn quại đang dằn xé tâm can nàng.
Thế nhưng, những lời nói ấy lại chính là những lời thuyết phục nhất, khéo léo nhất để khiến Vân hiểu, đồng lòng với Kiều mà nhận lấy trách nhiệm nặng nề này.
Nhắc đến tình yêu của mình, Kiều lại tưởng nhớ lại những kỉ niệm, những lời thề nguyền của người yêu. Những hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” làm ùa về trong tâm trí nàng những cảnh sắc của đêm thề nguyền dưới trăng, của tình yêu ấm áp và hạnh phúc với Kim Trọng.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”
Thế nhưng, tai hoạ ập đến khiến nàng buộc phải lựa chọn giữa hiếu và tình. Và nàng đã chọn chữ hiếu. Tình yêu đầu càng đẹp càng khiến trái tim nàng đau đớn khôn nguôi. Chữ hiếu chữ tình không thể “hai bề vẹn hai” nên nỗi đau đó khiến nàng khổ sở, khiến nàng ngày đêm dằn vặt trong đau xót.
Kiều bộc bạch hết với Thuý Vân vừa là để giải thoát cho lòng mình vừa muốn Vân hiểu được tình cảnh ngang trái của mình để giúp nàng thực hiện mối duyên đó.
“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Những lời nói gan ruột của Kiều cứ thốt lên trong sự đau xót, trong sự dằn vặt. Kiều muốn Vân nhận lời mình, muốn Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, vì nàng biết, sự ra đi lần này của nàng không biết bao lâu mới có thể gặp lại. Nàng nhắc tới tuổi trẻ của Vân, nhắc tới tình chị em ruột thịt:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Tương lai Vân còn ở phía trước, tuổi trẻ còn tràn trề, hơn thế, tình máu mủ ruột thịt còn đó, em hãy nhận lời trả duyên giúp chị. Mong rằng em sẽ niệm tình thân đó mà nhận lời thay chị thực hiện lời thề “nước non” đó cùng chàng. Những lời Kiều nói ra vừa đượm nỗi đau xót vừa đầy thuyết phục khiến Vân khó lòng có thể chối từ.
Kiều biết rằng, có thể sự ra đi lần này sẽ không thể trở lại, cái “chết” có thể diễn ra bất cứ lúc nào, vậy nên, nàng đã đem điều đó làm lý do để thuyết phục Vân:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Đối với Kiều, lời hứa lời thề với Kim Trọng, việc trả nghĩa cho chàng còn quan trọng hơn cái chết của nàng. Chính vì vậy, kể cả khi chết đi, trong thâm tâm nàng vẫn mong trả được mối duyên với Kim Trọng.
Và nếu điều ấy đã được thực hiện, thì nàng cũng mãn nguyện mà “ngậm cười” nơi “chín suối” mà cảm kích Thuý Vân đã giúp đỡ mình. Câu thơ nặng nề như một lời trăn trối, như tâm nguyện của một người sắp chết, điều đó khiến lời khước từ của Thuý Vân càng khó có thể nói ra.
Những lời nói của Thuý Kiều khi trao duyên thật thuyết phục, thấu tình đạt lý khiến cho người em như Thuý Vân khó lòng chối từ. Từng câu thơ là từng nỗi lòng của Kiều được bộc bạch một cách khéo léo, thông minh, chứa đựng niềm đau xót vô bờ khi phải rời xa tình yêu đầu còn đang mặn nồng hạnh phúc và còn chứa đựng đức hi sinh cao cả của Kiều vì chữ hiếu, vì gia đình nữa.
Về nghệ thuật, tài năng của Nguyễn Du được thể hiện rõ qua các sử dụng ngôn ngữ hết sức đặc sắc và tinh tế. Mỗi từ ngữ đều được ông chọn lựa kỹ càng tạo nên một lời thuyết phục hết sức khéo léo và thông minh của Kiều.
Đồng thời Nguyễn Du cũng sử dụng một số thành ngữ cũng như hình ảnh ẩn dụ để gợi nên sự hoàn cảnh cũng như niềm day dứt trong lòng Kiều. Nhịp điệu thơ rất nhẹ nhàng, chứa đựng đầy cảm xúc, sư thống thiết, dằn vặt.
Mười hai câu đầu trong đoạn trích Trao duyên là những cậy nhờ, gửi gắm trả nghĩa tình cho Kim Trọng đầy chân thành của Kiều cho em gái về mối tình đầu sâu đậm của mình. Vì những lề thói, những chế độ quan quyền đã gián tiếp đẩy Kiều rời xa tình yêu của mình. Qua đó, chúng ta thấy hiện thực xã hội phong kiến chuyên quyền thối nát, đẩy con người ta vào bước đường cùng đầy đau khổ, thiệt thòi đặc biệt là người phụ nữ.
Văn mẫu số 4: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên ấn tượng.
Nhắc đến văn học trung đại Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. 3254 câu thơ với nhiều đoạn trích khác nhau, mỗi đoạn trích lại gửi gắm những giá trị vô cùng sâu sắc.
“Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của “Truyện Kiều”, tái hiện bi kịch tình yêu dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc và khát khao hạnh phúc của con người. Điều này thể hiện rõ nhất qua 12 câu thơ đầu đoạn trích:
“Cậy em, em có chịu lời,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, đem lòng cảm mến rồi quyết định thề nguyền dưới trăng. Tình yêu của họ là duyên phận tác hợp. Duyên phận vốn dĩ là thứ tốt đẹp trời cho, khó cưỡng cầu, càng không nên ép buộc.
Thế nhưng, dòng đời xô đẩy, Kiều quyết định “trao” lại mối duyên này. Đoạn trích mở ra nghịch cảnh đầy trớ trêu, chua xót:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ ngắn gọn mà chất chứa bao đau đớn, dằn vặt. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu thơ nhấn mạnh tình cảnh khó xử, ngặt nghèo của Thúy Kiều. “Cậy” mang ý nghĩa gần giống như “nhờ”, là hành động mong muốn được giúp đỡ. Nhưng “cậy” lại sâu sắc hơn, thể hiện niềm tin tưởng vào người được nhờ. Tương tự “chịu” giống như “nhận” là đồng ý, nhưng “chịu” mang thái độ tình cảm khẩn thiết, gần như là van nài, đặt người được nhờ vào tình thế khó lòng từ chối. Ngôn ngữ Kiều dùng trong lời nói hết sức khéo léo, chân thành.
Không những vậy, lời nói ấy còn đi cùng với hành động “lạy”, “thưa”. “lạy” “thưa” vốn là hành động kính trọng của người bề dưới với bề trên. Kiều là chị, Vân là em, nhưng thời điểm này Kiều lại làm như vậy.
Những việc làm tưởng như nghịch lý khó hiểu lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng cũng hiểu được nhờ em trả nghĩa thay mình, nối tiếp mối duyên này là bất công và thiệt thòi cho em. Vì thế, Kiều cúi mình trước Vân.
Vào lúc này, Kiều đứng ở vị thế của người chịu ơn với người giúp đỡ mình mà không phải vị thế người chị với em gái. Điều này thể hiện sự thấu tình đạt lý khéo léo của nàng.
Trao duyên với Kiều không phải việc gì quá dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em rồi thật lòng tâm sự, giãi bày, mong muốn Thúy Vân thấu hiểu, thông cảm và nhận lời:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Trong nỗi đau xót, bao kỉ niệm tình yêu tươi đẹp ùa về. Nhưng hiện thực trêu người, thành ngữ “đứt gánh tương tư” nhấn mạnh nỗi đau tình yêu dang dở. Mối tình tốt đẹp với chàng Kim chưa kịp viên mãn đã bị sóng gió ập đến ngăn trở. Kiều đau khổ nhưng phải dằn lòng lại, trao gửi cho Vân.
Nàng dùng điển tích “keo loan” thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Đồng thời nàng cũng bày tỏ sự áy náy, day dứt khi đem tơ duyên của mình trở thành “tơ thừa” mặc em chắp nối.
Từ “khi” được lặp lại 3 lần gợi nhắc khoảng thời gian tươi đẹp, nhấn mạnh mối duyên tình sâu đậm với chàng Kim. Từ đó khắc sâu nỗi đau khổ, xót xa trong tâm trạng của Kiều khi nói ra những lời này.
Nàng đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, đồng thời cũng xót xa cho thân phận trớ trêu của chính mình.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Quá khứ tươi đẹp quý giá nhưng hiện tại vô vàn khắc nghiệt. Lời thề nguyền dưới trăng vẫn còn đó nhưng tai họa ập đến, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em.
Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều buộc phải đưa ra quyết định. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở, chưa kịp thành hình đã bị tan vỡ, trái tim nàng đau đớn vô cùng. Nàng hết lòng thuyết phục Vân, mong em hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ. Trước hết là Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài. Thứ hai là tình chị em máu mủ ruột thịt. Cuối cùng là cái chết của bản thân. Từng lời lẽ đều thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Thúy Kiều. Kiều đã chọn chữ hiếu, nhưng tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng. Kiều kìm nén đau thương, thua thiệt của bản thân.
Nàng chấp nhận thịt nát xương mòn, chỉ mong Vân giúp mình nối duyên với Kim Trọng. Sâu trong tâm hồn đang vụn vỡ của Kiều là nỗi đau phụ bạc Kim Trọng và mong muốn bù đắp mãnh liệt cho chàng. Lời thuyết phục Vân của Kiều vô cùng chân thành, cảm động.
Chỉ với 12 câu thơ, Nguyễn Du đã thành công sử dụng thể thơ lục bát cùng những ngôn từ tinh tế. Qua đó khắc họa được bi kịch nghiệt ngã của Thúy Kiều cùng tâm trạng đau đớn, dằn vặt của nàng.
Ngòi bút tài hoa cùng tấm lòng nhân đạo của tác giả đã tái hiện đầy xúc động nội tâm nhân vật. Không chỉ bộc lộ sự khéo léo thông minh mà còn ngợi ca tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
12 câu thơ cùng đoạn trích “Trao duyên” từ đó đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị đặc sắc của “Truyện Kiều”. Để rồi bao năm tháng trôi đi, “Truyện Kiều” vẫn sống mãi trong lòng người đọc, trở thành niềm tự hào văn học của cả dân tộc Việt Nam.
Văn mẫu số 5: phân tích 12 câu đầu Trao Duyên xúc tích nhất.
Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”.
Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả.
Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu.
Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim.
Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”.
Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!
Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân.
“Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…
Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em.
Thật đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động.
Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.
Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị.
Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.
Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.
Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
Kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Kết luận:
Tất cả dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy khoa học, top 5 văn mẫu hay nhất phân tích 12 câu đầu Trao Duyên của đại thi hào Nguyễn Du đã được Trường THPT Phạm Hồng Thái gợi ý đến bạn rồi đó. Chúc các bạn tự tin và đạt được nhiều điểm cao trong các bài kiểm tra nhé. Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết này.