Hoàn cảnh sáng tác của một số tác phẩm Ngữ văn 9 Tài liệu ôn thi vào lớp 10

Hoàn cảnh sáng tác của một số tác phẩm Ngữ văn 9, vô cùng hữu ích giúp các em học trò lớp 9 tham khảo, hệ thống lại hoàn cảnh sáng tác của 22 tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 như: Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều, Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá…..

Nhờ đó, sẽ có thêm hành trang để bước vào kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 sắp tới. Sau đây sẽ là hoàn cảnh sáng tác của 22 văn bản trong Ngữ văn 9, mời các em cùng theo dõi nội dung cụ thể:

1. Chuyện người con gái Nam Xương

“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có xuất xứ từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục

2. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Đoạn trích nằm trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX), là tác phẩm văn xuôi ghi lại một cách sinh động, lôi cuốn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, vừa là tài liệu quý giá về sử học, địa lý, xã hội học

3. Cố Hương

Cố quốc là một trong số các truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn Lỗ Tấn, được in trong tập “Gào thét” (1923).

4. Hoàng Lê nhất thống chí

Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời khắc Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm ko chỉ ngừng lại ở sự thống nhất của vương triều nhà Lê nhưng mà còn được viết tiếp, tái tạo một thời kỳ lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ 18 và mấy năm đầu thế kỉ 19. Cuốn tiểu thuyết bao gồm 17 hồi.

5. Truyện Kiều

– Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)

– Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có dựa trên tình tiết Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc những phần thông minh của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang tới sự thành công và sức lôi cuốn cho tác phẩm

– Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát

6. Đồng chí

Bài thơ Đồng Chí được thi sĩ Chính Hữu sáng tác năm 1948, sau lúc tác giả đã cùng đồng chí tham gia tranh đấu trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

Năm đấy, Chính Hữu mới vừa tròn 20 tuổi; đang là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ Đô. Đại đội của anh được biệt phái đi truy kích địch trên vùng Việt Bắc. Sau chiến dịch phục kích này, mình bị ốm (bệnh), đơn vị hành quân, nhưng có cử một anh ở lại coi ngó, giúp sức mình. Chính nhờ một phần sự tận tình của anh và tình cảm của đồng chí nhưng mà sau trận ốm này mình viết bài “Đồng chí”

Bài thơ ngợi ca ý thức đồng chí, đồng chí thiêng liêng cao đẹp, vào sinh ra tử có nhau của các anh quân nhân thời kháng chiến chống Pháp. Chính tình đồng chí, đồng chí thiêng liêng cao đẹp là ngọn nguồn sức mạnh giúp người lính vượt qua mọi gian truân khó khăn, dũng cảm tranh đấu, hoàn thành nhiệm vụ.

7. Bài thơ về tiểu đội xe ko kính

Bài thơ về tiểu đội xe ko kính được thi sĩ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, trên trục đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ nằm trong chùm thơ được giải Nhất của cuộc thi thơ báo Văn nghệ tổ chức và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa” (1970) của tác giả.

Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất gay go, thảm khốc. Miền Bắc được giải phóng miền Nam vẫn tiếp tục tranh đấu chống đế quốc Mĩ. Vượt qua mưa bom bão đạn của quân địch, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian truân và hy sinh để vận chuyển tiếp viện miền Nam. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Lấy cảm hứng từ những chiếc xe ko kính đã làm nền để thi sĩ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.

Bài thơ ngợi ca những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời đánh Mỹ dũng cảm ngoan cường, sáng sủa yêu đời trong mưa bom bão đạn, quyết tranh đấu hi sinh vì một lý tưởng cao cả là giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

8. Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được thi sĩ Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tiễn dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về tự nhiên non sông, về lao động và thú vui trước cuộc sống mới. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958)

Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của chính phủ, năm 1958, Huy Cận hăm hở tới với vùng mỏ Quảng Ninh. Chính thú vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang tạo nên, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Từ chuyến đi đấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về tự nhiên non sông, về lao động và thú vui trước cuộc sống mới.

Bài thơ mô tả đoàn thuyền đánh cá trong một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ngợi ca tự nhiên non sông nên thơ tươi đẹp đang trên đà thay da đổi thịt, hình ảnh những con người mới, hăng say lao động, tư thế hiên ngang, tràn đầy sáng sủa tin tưởng, đang vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.

9. Bếp lửa

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, lúc tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

Bếp lửa là niềm hồi ức xúc động của thi sĩ về hình ảnh bếp lửa thân thuộc, thân thiện và hình ảnh người bà hiền từ. Những năm đầu theo học luật tại Khiep, nước Nga, từ xa tổ quốc, thi sĩ nhớ tới quê nhà da diết. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, thi sĩ hay nhớ tới quang cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Từ đó khơi gợi nguồn cảm hứng để thi sĩ viết nên bài thơ này.

Qua hình ảnh Bếp lửa – ngọn lửa, tác giả trình bày lòng thương nhớ, mến yêu và hàm ơn bà của đứa cháu đi xa, đồng thời nói lên tình yêu tha thiết đối với gia đình, quê hương, non sông.

10. Khúc hát ru những em nhỏ lớn trên lưng mẹ

Khúc hát ru những em nhỏ lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, lúc đang công việc tại chiến khu miền tây Thừa Thiên. Tác phẩm sau này được in trong tập “Đất và khát vọng” ( 1984).

Đầu năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào thời kỳ khốc liệt nhất trong lịch sử. Quân giặc liên tục mở những cuộc tiến công thảm khốc tàn phá miền Bắc khiến cuộc sống của quân nhân và nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu miền rừng núi, cán bộ và nhân dân ta vừa bán rẫy,bám rừng vừa ngày càng tăng sản xuất, vừa sẵn sàng tranh đấu bảo vệ căn cứ. Lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động và tranh đấu của đồng bào miền núi, Nguyễn khoa Điềm viết nên bài thơ này để cỗ vũ ý thức đánh giặc của cả nước.

Bài thơ ngợi ca tấm lòng phúc hậu, dạt dào tình thương con của bà mẹ Tà ôi, tình thương con gắn liền với tình yêu nước, yêu quân nhân Cụ Hồ, yêu bà con làng bản quê hương.

11. Ánh trăng

Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, lúc ông đang là đại diện thường trú của Báo Văn nghệ tại thành thị Hồ Chí Minh. Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên của tác giả.

Nguyễn Duy vốn là người lính. Sau lúc non sông giải phóng, ông vào làm việc và sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ chính là những trải nghiệm thực tiễn của chính bản thân ông. Nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, những người từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng trận chiến gian truân nhưng mà tình nghĩa. Mượn hình ảnh ánh trăng, thi sĩ bộ lộ thật tâm và cảm động những ưu tư và niềm mong mỏi trân trọng và giữ gìn quá khứ tình nghĩa của con người lúc bước vào cuộc sống mới.

Bài thơ ngợi ca vầng trăng tri kỉ của tuổi thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy chung, giữ trọn đạo lí tốt đẹp.

12. Làng

Truyện ngắn Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc.

Sau Cách mệnh tháng Tám năm 1945, quân Pháp trở mặt, tiếp tục đưa quân sang xâm tái lược nước ta. Năm 1946, chính phủ cách mệnh đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong thời kì này,ì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến trong khoảng thời gian dài. Ở thời kỳ đầu, nhiều người dân còn hoang mang đối với chính sách của Ủy ban kháng chiến và trục đường cách mệnh của lãnh tụ Hồ Chí minh. Để trình diễn những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời động viên ý thức cách mệnh, Kim Lân đã viết truyện ngắn Làng.

Truyện nói về tình yêu Làng của ông Hai Thu lúc phải xa làng đi tản cư, qua đó ngợi ca tình yêu quê hương non sông và tình yêu kháng chiến chống, yêu cách mệnh của người nông dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

13. Lặng lẽ Sapa

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác trong chuyến công việc tại Lào Cai giữa mùa hè năm 1970 của tác giả. Truyện được in trong tập “Giữa trong xanh” (năm 1972).

Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, năm 1970, Nguyễn Thành Long chủ động tìm kiếm chủ đề ở miền Tây Bắc xa xôi. Ông hướng sự quan sát tìm kiếm những vẻ đẹp bình dị, ẩn sâu trong cuộc sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh của non sông. Cuối cùng, ông cũng phát hiện được hình ảnh người thanh niên làm việc trên đỉnh cao Yên Sơn – Sapa cao 2600 mét. Đó là hình tượng và nguồn chạm màn hình để ông hoàn thành tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa.

Thông qua cuộc gặp mặt giữa bốn nhân vật, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, bác lái xe với anh thanh niên làm công việc khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn giữa núi rừng Lào Cai, tác giả ngợi ca những con người lao động phổ biến đang lặng lẽ lặng lẽ hiến dâng công sức của mình cho công cuộc xây dựng XHCN và thống nhất non sông.

14. Chiếc lược ngà

Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, lúc tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên của ông.

Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam công việc. Ông hoạt động chủ yếu ở Vùng Đồng Tháp Mười. Một lần, ông đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Ở đó, có một đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Ông rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Lấy cảm hứng từ câu chuyện gia đình cảm động của nữ giao liên, sau lúc nghe cô kể chuyện, lúc trở về, nhà văn ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.

Truyện kể về tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu và nhỏ Thu, qua đó tác giả ngợi ca tình cha con sâu nặng, tình đồng chí thiết tha trong tình cảnh ngang trái thời chiến tranh, đồng thời ngợi ca truyền thống cách mệnh yêu nước của người nông dân Nam Bộ.

15. Con cò

– Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” (1967)

– Đây là một trong những bài thơ hay và lạ mắt của Chế Lan Viên ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống của con người.

16. Mùa xuân nho nhỏ

Bài thơ “Mùa Xuân Nho Nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980, lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh (ko lâu sau ông nhắm mắt xuôi tay), non sông ta mới thống nhất lại đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và thử thách. Nhưng tác giả vẫn có nhiều cảm nhận về mùa xuân tự nhiên, non sông, vẫn có ước nguyện hiến dâng trân thành, thiết tha. Từ đó trình bày tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tiếng lòng thiết tha yêu cuộc sống, ước nguyện được hiến dâng cho cuộc đời của tác giả.

17. Viếng lăng Bác

Bài thơ được viết vào tháng 4.1976, một năm sau ngày non sông thống nhất. Đó cũng là lúc lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành.

Viễn Phương là một người con của miền Nam, cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, thi sĩ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh dự có mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, thi sĩ viết bài thơ Viếng lăng Bác.

18. Sang thu

Bài thơ được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải phóng non sông 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ hào chiến đấu tới thành thị (xuất bản năm 1991).

Sang thu là những cảm nhận hết sức tinh tế của thi sĩ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh tự nhiên đấy.

19. Nói với con

Sáng tác năm 1980, lúc thế hệ thi sĩ vừa thoát khỏi chiến tranh, cái nghèo phủ trên từng con phố, bản làng, gương mặt. In trong tập ” Thơ VN 1945-1985″

Hoàn cảnh sáng tác giúp ta hiểu được tâm tư của người cha đối với con. Đây vừa là lời động viên ý thức con vượt qua mọi gian truân, vừa là sự tôn vinh phẩm chất kiên cường, giàu tình mến thương của người đồng mình.

20. Mây và sóng

“Mây và sóng” được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ Si-su (Trẻ thơ), xuất bản năm 1909 và được Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non xuất bản năm 1915.

21. Bến quê

Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.

Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường nhật, với những cụ thể sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao qui luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.

22. Những ngôi sao xa xôi

“Những ngôi sao xa xôi” ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra các liệt.Văn bản đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn. Truyện ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn toàn cầu” xuất bản ở Mỹ.

“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống tranh đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng tâm ở tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát tàu bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra, ghi lại những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đương đầu với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn ko mất đi thú vui hồn nhiên của tuổi xanh, những phút giây thư thả, thơ mộng. Họ rất gắn bó, mến thương nhau dù mỗi người một phong cách. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng chí hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt tới và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát khao.

Mỗi người có một phong cách riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa người hùng Việt Nam, của tuổi xanh Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã ko tô vẽ, ko mĩ lệ nhưng mà mô tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những người hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.

.



Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *