Nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa là một con người có lý tưởng sống cao đẹp, có ý thức trách nhiệm cao với công việc. Khi viết bài văn nhập vai anh thanh niên kể lại Lặng lẽ Sa Pa các em cần xưng tôi, rồi kể lại câu chuyện. Để giúp các em học trò kể lại câu chuyện này một cách dễ dàng hơn, Học247 mời các em cùng tham khảo tài liệu Vào vai anh thanh niên kể lại truyện Lặng lẽ Sa Pa dưới đây. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm tri thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Lặng lẽ Sa Pa.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài cụ thể
a. Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về bản thân.
– Kể về công việc hằng ngày.
b. Thân bài:
– Kể lại hoàn cảnh gặp mặt của mình và bác họa sĩ, cô kĩ sư.
– Kể lại cuộc trò chuyện với bác họa sĩ, cô kĩ sư:
- Công việc hằng ngày
- Quê hương, gia đình.
- Những người đồng nghiệp
– Kể lại cuộc chia tay.
c. Kết bài:
– Nêu cảm tưởng của bản thân về cuộc gặp.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết bài văn nhập vai anh thanh niên kể lại truyện Lặng lẽ Sa Pa.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Là thanh niên, tôi luôn nghĩ rằng với sức dài vai rộng, phải xung phong tới nơi đầu sóng ngọn gió, đem sức mình hiến dâng cho công trận chiến đấu bảo vệ tổ quốc và dựng xây tổ quốc. Thế nên, sau lúc tốt nghiệp trường đại học, tôi rời thành thị tự nguyện lên công việc ở đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét, thuộc Sa Pa, Lào Cai.
Tôi được phân công làm công việc khí tượng thủy văn kiêm vật lí địa cầu. Nhiệm vụ của tôi là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ tranh đấu. Công việc ko mấy cực nhọc nhưng phải đo, tính và báo cáo cứ 4 giờ một lần. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Trời rét lắm. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to tới cỡ nào vẫn thấy là ko đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, nhưng mà gió thì giống những nhát thanh hao lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc yên lặng lạnh cóng nhưng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, ko thể nào ngủ lại được.
Những ngày đầu mới lên, chưa quen nơi ở mới, tôi buồn lắm. Vốn quen với cuộc sống nơi thành thị tiện nghi và sôi động, giờ một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cối và mây mù lạnh lẽo, nhớ ơi là nhớ. Cái cảm giác cả ngày chỉ nhìn thấy cỏ cây, ko được trò chuyện cùng người nào, ko nói, ko cười thật là đáng sợ. Nhiều lúc, bởi thèm nói chuyện, thèm được lắng tai giọng nói quá, tôi lăn khúc cây lớn chắn ngang giữa đường, có xe nào đó ngừng lại, lấy cớ phụ lăn cây vào lề để được nhìn trông và nói chuyện một lát. Những lần như thế, tôi quen được bác lái xe tốt bụng. Mỗi lần ở dưới lên, bác thường sắm tặng tôi món này món kia để tôi vui.
Một lần, bác lái xe dẫn một đoàn khách gồm một ông họa sĩ già và một cô kỹ sư thẻ lên thăm tôi. Lúc đấy, tôi chưa rõ khách tới thăm mình là người nào, chỉ vừa thấy xe ngừng lại, ba người vừa đi một đoạn là tôi từ trên đỉnh núi hào hứng chạy xuống chào đón.
Lần đó, bác tài xế đã giới thiệu cho tôi hai người đó, họ có ba mươi phút tôi bèn dẫn họ lên thăm nhà. Tôi hái thật nhiều hoa để tặng cô kĩ sư, cô đấy rất thích. Rồi tôi giới thiệu qua công việc của mình cho cô kĩ sư và ông họa sĩ nghe. Tôi đưa họ vào trong nhà. Ông họa sĩ ngạc nhiên lúc ở cái nơi “lặng lẽ Sa Pa” này tưởng tôi ở một mình thì mọi thứ chắc ngổn ngang lắm. Đó vậy nhưng mà ông lại thấy căn phòng của tôi quá ngăn nắp. Cô kĩ sư ra tủ sách chọn lấy một quyển và ngồi đọc. Tôi và ông họa sĩ trò chuyện với nhau. Ông hỏi:
– Quê anh ở đâu thế?
– Quê cháu ở Lào Cai!
Hình như, càng nói chuyện thì ông họa sĩ càng thích tôi. Cuối cùng, ông ra quyết định sẽ vẽ chân dung tôi. Tôi ngượng lắm, liền từ chối mãnh liệt. Tôi cảm thấy tôi ko xứng đáng để được vẽ, còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Ông kĩ sư vườn rau, đồng chí nghiên cứu khoa học trên mảnh đất này, họ cũng là những thiên tài và rất xứng đáng để được phác họa chân dung. Nhưng ông đã mở đầu phác thảo khuôn mặt của tôi, bằng vài nét, họa sĩ đã gần như ghi xong gương mặt của tôi.
Tôi nhìn đồng hồ và kêu lên:
– Trời ơi, chỉ còn năm phút!
Tôi giật thột nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Tôi chạy ra nhà phía sau, rồi vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế, thư thả đi tới chỗ bác già
– Ô! Cô còn quên chiếc mùi soa đây này!
Tôi kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc khăn tay còn vo tròn giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
Chúng tôi tạm biệt nhau, ông họa sĩ già hứa sẽ lên thăm tôi một lần nữa.
Tới lượt cô kĩ sư. Cô chìa tay ra cho anh nắm, thận trọng, rõ ràng, như người ta cho nhau cái gì chứ ko phải là cái bắt tay. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi
– Chào anh.
Tôi đưa cho cô kĩ sư quyển sách và chiếc khăn mùi soa. Tôi nắm tay cô đấy, cả hai chúng tôi dường như đã cảm thu được tình cảm của nhau.
– Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe.
Tôi tạm biệt họ, tôi nghĩ rằng bao giờ mới có thể gặp lại hai người này. Đặc trưng là cô gái. Và tôi cảm thấy dường như chính tôi và cô gái đấy đều thấy có thiện cảm với nhau. Và tại nơi lặng lẽ Sapa này một tình yêu chớm nở giữa tôi và cô kĩ sư.
Tôi biết rằng câu chuyện giữa chúng tôi thật ngắn ngủi nhưng để lại trong mỗi mỗi chúng tôi: ông họa sĩ, tôi và cô đấy những xúc cảm ko thể nào quên. Nơi nhưng mà tình người như cao cả hơn cả đất trời, nơi đấy tình yêu cũng đơm hoa kết trái và nơi đấy chúng tôi gọi là nơi lặng lẽ Sapa.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Tôi – kẻ được mệnh danh là cô độc nhất vô nhị thế gian. Gọi như thế có nhẽ cũng phải thôi vì đã mấy năm trời tôi sống quanh quẩn làm công việc khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét; quanh năm làm bạn với mây mù và tự nhiên lạnh lẽo. Tôi thèm lắm cái hơi người ấm đượm giữa cái chốn mênh mông mênh mông này. Thế là trời chẳng phụ tôi đã cho tôi có một cuộc gặp mặt đầy bất thần đong đầy những dư vị tình cảm.
Nói tới cuộc gặp mặt đặc trưng này tôi há phải cảm ơn bác lái xe già nhiều lắm vì bác đã giới thiệu tôi với mọi người. Nhắc tới bác lái xe già cơ duyên tôi may mắn được gặp bác qua một lần đẩy cây chắn ngang xe bác. Nghĩ lại thấy ngại và đáng xấu hổ vì ước muốn nhỏ nhen được gặp người của mình nhưng mà làm chắn đoạn đường bác đi. Thế nhưng mà bác lại thảo nào tôi lại thông cảm và hiểu cho tôi. Từ đó về sau bác hay lên thăm tôi lúc thì sắm sách lúc lại sắm cho tôi những thứ tôi cần.
Hôm nay cũng như thường lệ; nhác thấy chiếc xe của bác phía xa xa, tôi rạng rỡ chạy tới dúi vào tay bác củ tam thất nhỏ vừa đào được, gửi bác về ngâm rượu bồi bổ cho bác gái vừa mới ốm dậy. Tôi hồ hới khoe với bác nhưng mà chẳng quan tâm bác còn dẫn thêm hai người khách. Bác giới thiệu nhanh với tôi rằng đó là một ông họa sĩ già và một cô kĩ sư nông nghiệp. Theo lời gợi ý của bác, tôi có lời mời khách lên thăm nhà và cũng chính là nơi tôi làm việc.
Ở đây cuộc sống cô độc tôi có trồng thêm vài cây hoa: hoa dơn; hoa thược dược; huê hồng phấn… Sắc xanh đỏ, tím đan xen rực rỡ. Không nhiều nhưng cũng đủ làm nức lòng khách nơi xa. Cô kĩ sư xinh đẹp cũng ko nằm trong ngoại lệ, cô ô lên một tiếng đầy thích thú. Cô đấy là cô gái trước tiên từ Hà Nội tới thăm nhà tôi vậy chả có lý do gì nhưng mà tôi ko dành tặng cho cô đấy một bó hoa thật to.
Bác lái xe già chỉ cho tôi gặp “người” được ba mươi phút để bác ko nhỡ nhàng hành trình của mình. Vì thế tôi phải tranh thủ từng giây từng phút quý giá của cuộc đời. Tôi xin ông và cô năm phút để kể về câu chuyện của mình và hai mươi phút để được nghe về chuyện dưới xuôi. Tôi thực sự rất muốn biết dưới xuôi hiện thời tình hình kinh tế, con người như thế nào, có gì đổi mới.
Tôi mở đầu kể về công việc của mình. Công việc của tôi gắn liền với những chiếc máy nằm ngoài vườn kia. Nhiệm vụ của tôi là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, tính chấn động, dự đoán thời tiết hàng ngày phục vụ cho bà con sản xuất và tranh đấu. Vừa kể tôi vừa giới thiệu cho bác từng loại máy: nào là máy đo mưa; mưa xong thì đổ nước mưa ra cốc phân ly rồi đo; còn đây là máy nhật quang ký, chuyên dùng để đo mức độ nắng dựa trên khả năng thiêu cháy giấy rồi máy đo gió; đo mây… Tôi giới thiệu cho họ về những máy móc làm việc hàng ngày của tôi; tôi sử dụng chúng để nghiên cứu lấy số liệu rồi báo về bằng bộ đàm chuyên dụng vào khoảng thời kì cố định là bốn giờ; mười một giờ; bảy giờ tối và mười một giờ sáng. Nắm chắc tri thức khoa học; công việc nói chung là đơn giản. Chỉ ngại mỗi hôm thời tiết khắc nghiệt; gió tuyết lạnh căm nhưng mà phải ra vườn lúc một giờ sáng thì cảm giác thật khó tả. Cái lặng im; gào thét lạnh lẽo của gió như xâu xé, nuốt trọn con người nhỏ nhỏ. Lúc xong việc quay trở vào giường lại đau đáu trằn trọc ko tài nào tiếp giấc được nữa.
Nói tới đây giọng tôi bỗng nghẹn lại, cảm như có cái gì đó đè nén, có cái gì nghẹn ngào tới khó tả. Tôi ngửng lên thấy cô gái đang chuyên chú lắng tai, ông họa sĩ già lại dục tôi:
– Anh kể tiếp đi.
Tôi sợ rằng kể nữa mình sẽ chẳng kìm được xúc cảm nên lảng sang, tôi vui vẻ:
– Thôi mời cô và ông vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đó ạ.
Nhà tôi thì đơn sơ: có chiếc giường con; chiếc bàn học và một giá sách. Sống một mình thế có nhẽ là đủ. Tôi rót nước mời ông, mời cô nhưng cô gái trẻ lại đang mê mải bên trang sách nên tôi chỉ lẳng lặng đặt nhẹ phía trước mặt. Uống chè tôi pha, ông họa sĩ tỏ ra thích thú, ông tiếp:
– Ta thỏa thuận thế này. Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh nghe. Tôi sẽ trở lại, danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chót vót trên cao nó thế nào. Hiện giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể chuyện anh đi. Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất vô nhị thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?
Nghe tới đây tôi sững sờ, đoán biết là do bác lái xe kể, tôi vội thanh minh:
– Không, ko đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
Nói cho vui thế chứ cũng có lúc tôi đã từng nghĩ mình lẻ loi nhưng ngẫm lại cho cùng tôi nào có lẻ loi, tôi còn có công việc vả lại công việc của tôi còn gắn liền với bao anh em, đồng chí dưới kia. Còn nói về cái thèm người tôi ko phủ nhận. Mỗi lúc như thế tôi lại nói với lòng mình rằng: Mình sinh ra ở đâu và làm việc vì cái gì? Mình phải có trách nhiệm và hiến dâng hết mình. Nhưng mà đâu chỉ mình tôi thèm người bác lái xe cũng thế còn gì, những hôm bác ấn còi inh ỏi nhưng mà tôi ko chịu xuống là bác lại mò lên tận đây.
Quay sang cô kĩ sư tôi nói:
– Và cô thấy đấy, tôi còn có sách làm bạn nhưng mà.
Ông họa sĩ thắc mắc hỏi tôi:
– Quê anh ở đâu?
Tôi ko ngần ngại san sẻ:
– Quê cháu ở Lào Cai và tôi có một ông bố tuyệt lắm.
Tôi kể cho họ nghe chuyện hai bố con tôi cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận. Kết quả: bô tôi thắng cháu một – ko. Dịp Tết vừa rồi có một đoàn các chú lái phi cơ lên thăm cơ quan tôi ở Sa Pa. Không có tôi ở đấy. Các chú lại cử một chú lên tận đây. Chú đấy nói: nhờ có tôi góp phần phát hiện một đám mây khô nhưng mà ngày đấy, tháng đấy, ko quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Đối với tôi lúc đấy xúc cảm như vỡ òa, hạnh phúc vì cũng có lúc mình lại lập được chiến công to tới thế. Chú lái phi cơ có nhắc tới bố tôi, ôm tôi nhưng mà lắc “Thế là một – hòa nhé!”. Chú nói thế chứ tôi vẫn còn thua bố nhiều lắm.
Bất giác quay sang tôi thấy ông họa sĩ đang nghí ngoáy vào cuốn sổ trên gối. Bác vẽ tôi nhưng mình còn chưa xứng đáng. Dù thể để ko vô lễ tôi vẫn ngồi yên để bác vẽ. Những nét phác họa nhanh nhưng chứa đựng đầy tâm huyết và tình cảm ở trong đó. Tôi cảm nhận là vậy.
Tôi biết có rất nhiều người xứng đáng hơn mình. Tôi nhanh nhẹn:
– Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa! Ngày này sang ngày khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn cây tương tự. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngon hơn trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá. Bác về Sa Pa vẽ ông ta đi, bác. Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu ở dưới đấy đấy. Có thể nói đồng chí đấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm. Mười một năm ko một ngày xa cơ quan. Không đi tới đâu nhưng mà tìm vợ. Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ đấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.
Đó là những con người hi sinh thầm lặng, những con người hiến dâng hết mình giữa cái chốn hoang vu, lạnh lẽo để dựng xây quê hương tổ quốc. Nói tới đây tôi thoáng thấy một nét đượm buồn ,băn khoăn đầy ưu tư trên khuôn mặt ông họa sĩ.
Còn về cô kĩ sư nông nghiệp. Tôi ko giỏi đoán được suy nghĩ con gái. Tôi ko biết rằng cô đang nghĩ gì? Về câu chuyện tôi kể hay về những xúc cảm tình yêu trong cuốn sách? Hay phải chăng còn là những quyết định đã qua? Tôi ko thể đoán được nhưng tôi chắc rằng trong cô đang dạt dào lên một ấn tượng hàm ơn khó tả. Và như muốn để lưu lại chút gì đó nơi đây cô cố tình kẹp lại chiếc khăn tay vào giữa cuốn sách gửi lại cho tôi.
Nhưng vì lịch sự, vì những suy nghĩ giây khắc tôi lại gào lên:
– Ô, cô còn quên khăn mùi soa đây này!
Rồi cuộn tròn lại trả cho cô. Cô gái ngượng ngùng nhận rồi ngoảnh mặt quay đi.
Tôi đúng là vô tâm, vô tâm nên mới ko hiểu ý nhị của người con gái đáng yêu; tâm tình đấy. Mãi tới hiện thời trông thấy thì cũng đã chỉ còn là quá khứ.
Thời gian cũng đã hết tôi phải tiễn hai người khách đặc trưng ra về. Ông họa sĩ ôm chặt vai tôi lắc mạnh đầy hứa hứa:
– Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ?
Còn cô gái nắm lấy tay tôi buông câu nhẹ nhõm:
– Chào anh.
Một tình cảm nghẹn ngào như hàm chứa trong đó, xúc cảm dâng trào tới tột cùng trong tôi và có nhẽ trong cả chính cô gái đấy.
Tôi xách vội túi trứng, dúi vào tay ông họa sĩ:
– Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn ko xuể. Cháu ko tiễn bác và cô ra xe được, vì sắp tới giờ “ốp” rồi. Thôi chào bác, chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.”
Trung thực nhưng mà nói chưa tới giờ tôi trực nhưng tôi sợ sợ cái cảm giác chia ly đấy, sợ phải nói lời tạm biệt, sợ phải xa cái gọi là “hơi người”. Tôi chạy vào trong nhà và ngắm nhìn mãi cho tới lúc bóng cái xe khuất hẳn phía đằng xa.
Đó là câu chuyện của tôi câu chuyện về chuyến gặp mặt đặc trưng nơi núi rừng lạnh lẽo. Trong con mắt của ông họa sĩ già, của cô kĩ sư và của những người khác nữa, có nhẽ đôi lúc họ sẽ tự hỏi vì sao tôi lại hành khổ mình tới thế? Vì sao tôi lại phí hoài tuổi xanh tới thế? Tuổi trẻ để bay bổng còn vì sao tôi lại chọn cuộc sống lẻ loi? Tôi ko buồn nhưng mà trái lại tôi còn cảm thấy vui, cảm thấy hạnh phúc vì đã được đóng góp một phần sức lực nhỏ nhỏ cho quê hương, tổ quốc; được hiến dâng nhiệt thành tuổi xanh này cho non sông, núi rừng, để quốc gia ngày một đi lên, tăng trưởng hưng thịnh và giàu đẹp. Hi vọng thế hệ sau này sẽ có những con người như tôi, như ông kĩ sư hay đồng chí nghiên cứu sét – Những con người Lặng lẽ Sa Pa.
—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–
.