Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của cán bộ lãnh đạo (3 mẫu) Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa 12 học tập các Nghị quyết số 18, 19, 20 và 21 của Đảng

Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII dành cho cán bộ lãnh đạo quản lý trong các cơ quan đơn vị là bài thu hoạch học tập, quán triệt nội dung của các Nghị quyết 18-NQ/TW về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết 19-NQ/TW về “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, tăng lên chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị quyết 20-NQ/TW về “tăng cường công việc bảo vệ, chăm sóc và tăng lên sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”; Nghị quyết 21-NQ/TW về “Công việc dân số trong tình hình mới”. Mời độc giả cùng tham khảo để sẵn sàng cho bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng.

Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII

Bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII cho thầy cô giáo

Mẫu bìa bài thu hoạch nghị quyết trung ương 6 khóa XII

Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của cán bộ lãnh đạo

Mẫu số 3

BÀI THU HOẠCH Kết quả học tập, quán triệt Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng

Họ và tên: ………………………….

Đơn vị công việc: ……………………………………

Thực hiện chỉ huy của Cấp ủy Chi bộ về việc viết bài thu hoạch sau lúc học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá XII) của Đảng, bản thân tôi rút ra một số nội dung sau:

1. NHỮNG NỘI DUNG NHẬN THỨC SÂU SẮC NHẤT

Sau lúc học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa XII của Đảng, bản thân tôi đã nhận thức về những vấn đề cơ bản từ những chuyên đề được học tập và rút một số vấn đề từ Nghị quyết đối với thực tiễn của bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của bản thân, cụ thể như sau:

Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng gồm các Nghị quyết:

– Nghị quyết 18-NQ/TW: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

– Nghị quyết 19-NQ/TW: Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập.

– Nghị quyết 20-NQ/TW: Công việc bảo vệ, chăm sóc và tăng lên sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

– Nghị quyết 21-NQ/TW: Công việc dân số trong tình hình mới

Qua học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa 12 bản thân nhận thức thâm thúy và đồng ý với những nội dung của hội nghị đưa ra, tuy nhiên bản thân quan tâm thâm thúy nhất nội dung bàn về vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết 18-NQ/TW. Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, phức tạp và nhạy cảm, có liên quan tới những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan tới quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động… Việc đổi mới tổ chức, tăng lên chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và nhân văn thâm thúy, góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng quốc gia nhanh và vững bền.

Nghị quyết đặt ra yêu cầu hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội phải được đổi mới; công dụng, nhiệm vụ, mối quan hệ công việc của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước phục vụ yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền và tăng trưởng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn kềnh càng, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa phục vụ yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các ngành và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng biện hộ, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.

Trong dự thảo Chương trình hành động của cấp ủy thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XII gồm các nội dung:

– Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, tăng lên chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

– Tăng cường công việc bảo vệ, chăm sóc, tăng lên sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

– Công việc dân số trong tình hình mới.

– Tình hình kinh tế: xã hội và tài chính, ngân sách năm 2017; Dự kiến kế hoạch tăng trưởng kinh tế: xã hội và dự toán tài chính, ngân sách năm 2018.

Đây là những nội dung xuất phát từ yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với cả nước nói chung và cấp ủy nói riêng. Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung trong dự thảo trên, vì nó giải quyết được nhu cầu và tăng lên chất lượng cuộc sống, tuổi thọ cũng như đảm bảo việc làm cho nhân dân cả nước. Theo tôi, trước những giải pháp nhưng mà hội nghị đưa ra cần tập trung nhiệm vụ giải pháp là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp uỷ, chính quyền các ngành. Cấp lãnh đạo cần quan tâm thâm thúy hơn nữa tới cuộc sống ngày nay của nhân dân, đặc thù là vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số để họ là một phần đóng góp vào thực hiện thành công nhưng mà nội dung hội nghị đưa ra.

2. LIÊN HỆ BẢN THÂN, ĐƠN VỊ VÀ ĐỀ XUẤT

Là một cán bộ ……………………………………., tôi ý thức và quan tâm tới từng vấn đề nhưng mà nghị quyết Đại hội XII đã đề ra; đặc thù là các nội dung liên quan tới xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, người thân và cán bộ những vấn đề cấp thiết nhưng mà Nghị quyết đã nêu. Xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa quốc gia bằng những hành động cụ thể: Cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công việc, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi tri thức kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn .

– Chấp hành tốt chính sách, pháp luật, chủ trương của Đảng về công việc dân số trong tình hình mới, tăng lên sức khoẻ. Tích cực vận động gia đình, người thân chấp hành chính sách, pháp luật.

– Chấp hành việc phân công, điều động công việc lúc sắp xếp tổ chức, bộ máy theo các nội dung của Nghị quyết 18-NQ/TW.

3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

– Đổi mới và tăng lên chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mệnh cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những bộc lộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

– Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng thiên tài để xây dựng hàng ngũ cán bộ, nhất là hàng ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai cơ chế, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành để nhân dân giám sát.

– Thực hiện tốt Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tinh giản biên chế, cơ cấu lại hàng ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục tăng cường công việc quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý tới năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở”.

Người viết thu hoạch

Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của cán bộ lãnh đạo

Mẫu số 2

ĐẢNG BỘ …………………..

CHI BỘ ………………

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

……………, ngày … tháng 12 năm 2017

BÀI THU HOẠCH
Học tập Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII

Nhận thức về thực trạng (thành tựu, hạn chế và nguyên nhân), những điểm mới, mục tiêu khắc phục trong Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII

Nghị quyết số 18-NQ/TW, cơ bản đã nêu rỏ những thành tựu trong công việc chỉ huy, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động đi vào hiệu quả, cụ thể trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ huy tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Ngoài ra, nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó sát với tình hình thực tiễn từ cơ sở đên trung ương, như: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn kềnh càng, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp…; Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các ngành còn một số bất cập; Năng lực lãnh đạo và sức tranh đấu của ko ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu. Sự phối hợp giữa các ngành, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng “hành chính hoá”, “công chức hoá”. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở.

Nguyên nhân những hạn chế là do: Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Công việc lãnh đạo, chỉ huy, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, tránh né, ngại va chạm, lợi ích cục bộ;

Công việc quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào một đầu mối. Cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa thích hợp, thiếu mạnh mẽ.

Công việc rà soát, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; Công việc tổng kết thực tiễn, công việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời.

Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể, từng hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, mặt trận các đoàn thể cấp Trung ương tới địa phương;

Trên cơ sở đó, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, kiểu mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, phục vụ yêu cầu tăng trưởng quốc gia trước yêu cầu mới.

Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng mực vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mẫu hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta thích hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong thời kỳ mới; Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức.

Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc;

Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương. Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, nhận định và thực hiện cơ chế, chính sách đãi ngộ thích hợp.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công việc rà soát của Đảng với thanh tra của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, các cơ quan dân cử.

2- Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và tư nhân

Trong thời kì qua, cấp ủy chính quyền địa phương đã quan tâm trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đưa ra nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên quan tới công việc sắp xếp, xếp đặt, trọng dụng cán bộ có tài vào các công việc thích hợp với sở trường, nhiệm vụ. Kịp thời tổ chức thanh tra, rà soát cán bộ vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Tuy nhiên, trong việc xếp đặt sắp xếp cán bộ tại địa phương có sự nể nang, sắp xếp công việc trái nghề, trái chuyên môn còn xảy ra. Việc xếp đặt biên chế chưa thích hợp đối với một số ngành, đoàn thể dẫn tới chất lượng hoạt động công việc chưa cao.

Đối với bản thân là lãnh đạo trong thời kì qua đã quan tâm tư vấn cho cấp ủy thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm thích hợp với điều kiện thực tiễn; trong cơ quan phân công công việc thích hợp với năng lực sở trường của từng cán bộ; thường xuyên nhắc nhở rà soát uốn nắn lúc cán bộ có bộc lộ méo mó.

3- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp thực hiện ở ngành, địa phương, đơn vị và trách nhiệm vụ cụ thể của tư nhân

– Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai cơ chế, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành để nhân dân giám sát.

– Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mệnh cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những bộc lộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

– Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng thiên tài để xây dựng hàng ngũ cán bộ, nhất là hàng ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

– Thường xuyên rà soát, giám sát các cơ quan, tổ chức, tư nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Xử lý nghiêm cán bộ vi phạm những quy định của tổ chức Đảng, chính quyền, nhà nước và pháp luật.

Đối với bản thân trong thời kì tới cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công việc, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi tri thức kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn. Nghiên cứu các văn bản, tư vấn cấp ủy xếp đặt sắp xếp bộ máy, cán bộ đúng theo thẩm quyền, đúng thứ tự và đúng theo quy định.

Người viết bài thu hoạch

Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của cán bộ lãnh đạo

Mẫu số 1

ĐẢNG BỘ …………………..

CHI BỘ ………………

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

……………, ngày … tháng 12 năm 2017

BÀI THU HOẠCH
Tiếp thu nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII

– Họ và tên: ………………………………………….

– Chức vụ, đơn vị công việc: …………………………

– Đang sinh hoạt chi bộ:…………………………….

Sau lúc tiếp thu các nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương (TW) Đảng lần thứ 6, khóa XII tại Hội nghị trực tuyến với TW ngày 29-30/11/2017.

Qua 4 nghị quyết cụ thể như: nghị quyết 18-NQ/TW về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; nghị quyết 19-NQ/TW về “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, tăng lên chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; nghị quyết 20-NQ/TW về “tăng cường công việc bảo vệ, chăm sóc và tăng lên sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”; nghị quyết 21-NQ/TW về “Công việc dân số trong tình hình mới”. Bản thân quan tâm nhất và tập trung nghiên cứu về nghị quyết 18-NQ/TW về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Bởi “cán bộ là gốc của công việc” do đó việc đổi mới trong xếp đặt sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị phải tinh gọn sẽ góp phần xây dựng đi lên tuyến đường xã hội chủ nghĩa.

1- Nhận thức về thực trạng (thành tựu, hạn chế và nguyên nhân), những điểm mới, mục tiêu khắc phục trong Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII

Nghị quyết số 18-NQ/TW, cơ bản đã nêu rỏ những thành tựu trong công việc chỉ huy, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động đi vào hiệu quả, cụ thể trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ huy tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Ngoài ra, nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó sát với tình hình thực tiễn từ cơ sở đên trung ương, như: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn kềnh càng, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp…; Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các ngành còn một số bất cập; Năng lực lãnh đạo và sức tranh đấu của ko ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu. Sự phối hợp giữa các ngành, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng “hành chính hoá”, “công chức hoá”. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở.

Nguyên nhân những hạn chế là do: Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Công việc lãnh đạo, chỉ huy, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, tránh né, ngại va chạm, lợi ích cục bộ;

Công việc quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào một đầu mối. Cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa thích hợp, thiếu mạnh mẽ.

Công việc rà soát, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; Công việc tổng kết thực tiễn, công việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời.

Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể, từng hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, mặt trận các đoàn thể cấp Trung ương tới địa phương;

Trên cơ sở đó, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, kiểu mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, phục vụ yêu cầu tăng trưởng quốc gia trước yêu cầu mới.

Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng mực vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mẫu hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta thích hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong thời kỳ mới; Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức.

Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc;

Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương. Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, nhận định và thực hiện cơ chế, chính sách đãi ngộ thích hợp.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công việc rà soát của Đảng với thanh tra của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, các cơ quan dân cử.

2- Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và tư nhân

Trong thời kì qua, cấp ủy chính quyền địa phương đã quan tâm trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đưa ra nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên quan tới công việc sắp xếp, xếp đặt, trọng dụng cán bộ có tài vào các công việc thích hợp với sở trường, nhiệm vụ. Kịp thời tổ chức thanh tra, rà soát cán bộ vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Tuy nhiên, trong việc xếp đặt sắp xếp cán bộ tại địa phương có sự nể nang, sắp xếp công việc trái nghề, trái chuyên môn còn xảy ra. Việc xếp đặt biên chế chưa thích hợp đối với một số ngành, đoàn thể dẫn tới chất lượng hoạt động công việc chưa cao.

Đối với bản thân là lãnh đạo trong thời kì qua đã quan tâm tư vấn cho cấp ủy thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm thích hợp với điều kiện thực tiễn; trong cơ quan phân công công việc thích hợp với năng lực sở trường của từng cán bộ; thường xuyên nhắc nhở rà soát uốn nắn lúc cán bộ có bộc lộ méo mó.

3- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp thực hiện ở ngành, địa phương, đơn vị và trách nhiệm vụ cụ thể của tư nhân

– Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai cơ chế, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành để nhân dân giám sát.

– Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mệnh cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những bộc lộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

– Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng thiên tài để xây dựng hàng ngũ cán bộ, nhất là hàng ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

– Thường xuyên rà soát, giám sát các cơ quan, tổ chức, tư nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Xử lý nghiêm cán bộ vi phạm những quy định của tổ chức Đảng, chính quyền, nhà nước và pháp luật.

Đối với bản thân trong thời kì tới cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công việc, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi tri thức kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn. Nghiên cứu các văn bản, tư vấn cấp ủy xếp đặt sắp xếp bộ máy, cán bộ đúng theo thẩm quyền, đúng thứ tự và đúng theo quy định.

Người viết thu hoạch

…………………………



Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *