Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa gồm 14 bài văn mẫu hay ấn tượng nhất. Qua đó giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi vốn tri thức, biết được cách làm và hướng khắc phục vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng viết thành một bài văn phân tích hay, hoàn chỉnh. Người đàn bà làng chài mang một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và thống khổ. Vậy sau đây THPT Phạm Hồng Thái mời các bạn học trò cùng theo dõi 14 bài phân tích người đàn bà hàng chài nhé.
Dàn ý phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài
Dưới đây là Dàn ý phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài ngắn gọn và đầy đủ nhất !
A. Mở bài
- Giới thiệu Nguyễn Minh Châu
- Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Giới thiệu nhân vật người phụ nữ hàng chài
B. Thân bài
Tên tuổi
- Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người phụ nữ hàng chài”, “mụ”.
- Chỉ là một người vô danh như bao người phụ nữ vùng biển khác, nhưng số phận con người đó lại được tác giả tập trung trình bày và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
Vóc dáng ngoại hình
- Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mỏi mệt”- đó là hình ảnh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, thú vui, sức sống.
- Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch)
- Tự ti, tự ti ( dáng vẻ bối rối)
=> Nhà văn trình bày nỗi xót thương cho số phận con người ngay lúc mô tả ngoại hình, dáng vẻ của nhân vật.
Số phận thống khổ, xấu số
Nguyễn Minh Châu ko chỉ ngừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật nhưng mà ngòi bút thấm đẫm ý thức nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận xấu số của người phụ nữ hàng hàng.
- Một người phụ nữ xấu số, nhẫn nhục chịu đựng (người phụ nữ bị đánh)
- Người phụ nữ chịu những nỗi thống khổ chồng chất: mỏi mệt sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, thom thóp lo sợ con cái bị tổn thương lúc phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách.
- Tham khảo chuyển ý sau:
Đằng sau cái vóc dáng thô kệch đó, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới đó, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn đó người đọc còn trông thấy vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người phụ nữ hàng chài này.
- Chuyển ý hay hơn:
Nếu độc giả từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy ko ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người phụ nữ rách rưới này.
Vẻ đẹp của một người từng trải thâm thúy: đẹp nhất nhưng đặc trưng nhất
- Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ ko phải thực chất
- Người phụ nữ hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để lèo lái lúc phong ba bão táp ập tới.
- Từ lúc có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: ko hợp lý, ko hợp lòng dân.
Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, khoan thứ: thiên chức của người phụ nữ.
- Chị tự nguyện cho chồng đánh, ko kêu, ko chống trả, ko chạy trốn -> Một kẻ ngu tối chìa lưng cho chồng đánh (cái nhìn từ xa)
- Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo nàn, thống khổ), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ => bộc lộ tiêu cực.
- Chị ko trách chồng nhưng mà kéo tội tình về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)
- Chị chấp nhận những trận đòn như một cách xả stress những bức bách, u uất trong lòng người chồng -> hi sinh cao cả, chị hiểu chồng mình
- Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.
Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng
- “Người phụ nữ hàng chài chúng tôi sống cho con chứ ko phải sống cho mình”
-> Người mẹ này vừa thương con vô cùng, lúc vô tình để thằng nhỏ Phác nhìn thấy cảnh trái ngang -> vừa đớn đau, vừa xấu hổ
- Van nài đứa con, ôm chầm lấy nó -> sợ nó hành động dại khờ với bố nó.
- Khi nhắc tới cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc lúc “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”
C. Kết bài
- Cảm tưởng của mình về nhân vật.
Sơ đồ tư duy Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa
Dưới đây là Sơ đồ tư duy Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa, mời các bạn cùng tham khảo !
Tổng hợp Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa
Sau đây là Tổng hợp Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa, mời các bạn cùng tham khảo !
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời thẩm định của nhà văn Nguyễn Khcửa ải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất rực rỡ mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người phụ nữ hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trằn trọc về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh tự nhiên vô cùng xinh xắn, lộng lẫy nhưng mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công việc ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh đó là những góc khuất nhưng mà con người bỏ qua. Hình ảnh của người phụ nữ hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của tự nhiên nơi đây. Đó là một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi nhưng mà đặt một ngôi “mụ”, “người phụ nữ hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người phụ nữ với “một thân hình thân thuộc của phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt đó. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ đó còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng tới “tìm tới một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở thành đáng thương tới tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở thành tự ti, tự ti lúc đối diện với con người.
Không chỉ ngừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật thâm thúy, chân thực cả những tính cách con người mụ. Một người phụ nữ, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu tiêu biểu trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người phụ nữ đó, tới một người đàn ông như Phùng cũng không thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người phụ nữ đó vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, nhiếc mắng. Đôi mắt của chị hắt lên một trục đường tối đen ko tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có nhẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Những đớn đau về thể xác của chị không thể nào sánh với những nỗi đớn đau, dày vò về ý thức lúc chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương lúc phải chứng kiến những cảnh đớn đau đó. Thằng đàn ông của chị thương mẹ, nhăm nhăm con dao trong tay nhưng người mẹ đó đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị ko muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn nhưng mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đớn đau, buồn tủi vô cùng lúc cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quanh quẩn nghèo nàn. Những tháng ngày ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, túc trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch đó sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều nhưng mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người phụ nữ đó càng trở thành thâm thúy. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn đó nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Tới tận cùng nỗi đau, lúc đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại khờ đó. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ vạc và cảm thấy khâm phục người phụ nữ đó. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cục cằn.
Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người phụ nữ đó biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để phụ thuộc. Dù cho họ có vũ phu, cục cằn tới nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông nhưng mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ ko có quyền yêu cầu một người đàn ông sang giàu, có học vấn.
Trong lúc đường lối của Đảng trước và sau cách mệnh luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân được lợi cuộc sống no ấm, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương nhưng mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ nhưng mà đánh, thú vui của chị thật giản đơn lúc “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người phụ nữ làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người phụ nữ trong truyện nhưng mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc lúc nhìn những đứa con có nhẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm ko chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, nghèo đói nhưng mà còn trình bày niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn ko gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
Phân tích người đàn bà làng chài
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai thời kỳ, nếu như thời kỳ trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu ko khí vô trùng thì tới thời kỳ sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người phụ nữ hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm trị giá nhân đạo thâm thúy của mình.
Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người phụ nữ làng chài”. Phcửa ải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm tới độc giả thông điệp: người phụ nữ kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng mến thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.
Người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc trưng – ngoại hình xấu xí, thực ko mấy ưa nhìn. Đó là người phụ nữ mặt rỗ, dáng vẻ mỏi mệt, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm tình của người phụ nữ ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm nhưng mà mặt rỗ, ko người nào lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy thắt lưng vụt túi bụi, đã phần nào hé lộ số phận thảm kịch, xấu số của chị.
Dù chị có số phận xấu số tương tự, nhưng ta cũng ko thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ đó là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Trước hết ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm tình “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ lúc chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành tội về thể xác tương tự, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, ko hề kêu than, ko hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.
Không chỉ vậy người phụ nữ làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng mến thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, lúc bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ ko phải nhìn thấy cảnh đó. Chị đặc trưng thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay tức tốc xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng thật tâm, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc lúc nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười lúc nghĩ tới những thú vui nhỏ nhỏ nhưng mà gia đình bà từng có và đặc trưng lúc nghĩ tới cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết ko bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đương đầu với sóng gió ko thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.
Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã mang lại cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị giày xéo về phẩm chất, bị hành tội về thể xác nhưng chị tới tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta ko còn thấy một người phụ nữ quê mùa, ít học, nhưng mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị xúc tiếp với một ko gian mới. Chị ngồi sâu vào một góc, cố để ko người nào để mắt tới mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ nhỏ tới tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, làm cho cả hai người đàn ông ko khỏi khó xử. Nhưng sau lúc lấy lại được tĩnh tâm, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai nhân vật, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người phụ nữ làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình mến thương con và đức hinh sinh, người phụ nữ làng chài đã làm cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ thông cảm cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.
Hình ảnh người phụ nữ làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống nghèo đói lỗi thời, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính xinh xắn của người phụ nữ nông dân hồn hậu: mến thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài
Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người phụ nữ hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, xấu số, từng trải và sáng đẹp tình mến thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ xấu số đó đã để lại cho người đọc một niềm thông cảm và trân trọng thâm thúy bởi những phẩm chất đáng quý của bà.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh quốc gia ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Tác giả đã xây dựng thành người lao động vật Phùng kế bên nhân vật người phụ nữ hàng chài để làm nổi trội lên phẩm chất đáng quý của người phụ nữ đó. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, tình cảnh của chị gây xúc động, trằn trọc mạnh mẽ ko chỉ với tác giả nhưng mà còn với người đọc.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng ko biết tên thật của người phụ nữ đó là người nào, tác giả đã gọi một cách phiếm định: lúc thì gọi là người phụ nữ hàng chài, lúc lại gọi mụ, lúc thì gọi chị ta…. Khi người phụ nữ này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn ko
biết tên. Không phải trùng hợp nhưng mà Nguyễn Minh Châu ko đặt tên cho người phụ nữ hàng chài này, cũng ko phải nhà văn “nghèo” tiếng nói tới độ ko thể đặt cho chị một cái tên nhưng mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người phụ nữ ở vùng biển nhỏ nhỏ này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác ko hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tiễn rằng, ko phải chi mình người phụ nữ đó gặp xấu số nhưng mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những xấu số như thị.
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để mô tả về người phụ nữ hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, thống khổ làm cho dung mạo chị đã xấu giờ trở thành thô kệch.
Người phụ nữ xấu số đó ko chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình nhưng mà tạo hóa mang lại nhưng mà dường như mọi sự xấu số của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.
Phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà
Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật lạ mắt”. Phcửa ải chăng vì vậy nhưng mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn không giống nhau trên cùng một giao lộ của hành trình tìm kiếm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp tương tự. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành người lao động vật người vợ nhặt qua tình huống truyện lạ mắt thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người phụ nữ làng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.
Có thể nói, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật người vợ nhặt tuy ko phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm.Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một phong cách đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban sơ và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn tới một nàng dâu hiền từ, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất thần với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật lạ mắt để nhân vật tự bộc lộ trị giá của mình.
Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số ko tròn trĩnh: ko quê quán, ko nghề nghiệp, ko cả một cái tên, ko nhan sắc, ko lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “quần áo tơi tả như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “ton ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy tới”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ thể diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.
Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần xuất hiện dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” lúc đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền từ, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ ko còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sáng sau lúc về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, quét dọn, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi đó. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết toan lo việc nhà. Phcửa ải chăng đây mới chính là thực chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong cụ thể theo ko Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động đó thực chất xuất phát từ khát khao tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật mô tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành người lao động vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.
Kế bên người “vợ nhặt”, nhân vật người phụ nữ hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng thâm thúy. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc trình bày trị giá tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng văn pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người phụ nữ làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo lắng và ko khỏi trằn trọc.
Xuất hiện trước mắt độc giả , người phụ nữ làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lớn, “khuôn mặt mỏi mệt”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh xấu số nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá quắt của nhân vật lúc yên lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục đó là cả một tấm lòng vị tha, khoan thứ, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, dũng cảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống đó bởi lẽ chị mến thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “phụ nữ ở thuyền phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành tội bao nhiêu thì người phụ nữ đó vẫn thông cảm với những trắc trở của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người phụ nữ làng chài vẫn là người phụ nữ thâm thúy và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, ko chỉ khiến chánh án Đẩu, thợ chụp ảnh Phùng nhưng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ nhỏ, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp đó, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng ko bao giờ mất tích. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, lúc mô tả nhân vật bằng những cụ thể chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận thống khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người đó.
Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác lạ. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các cụ thể đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, u tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong lúc đó, vẻ đẹp của người phụ nữ hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các cụ thể đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này ko khỏi khiến ta băn khoăn, trằn trọc về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác lạ đó là do phong cách nghệ thuật và thời khắc sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình tăng trưởng chuyển đổi từ thấp tới cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong lúc đó nhân vật người phụ nữ hàng chài lại tĩnh tại, bình ổn như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này trình bày rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Tóm lại, người vợ nhặt và người phụ nữ hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm không giống nhau trong phong cách nhưng với ý thức nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất tử của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Với tất cả trị giá về nội dung và nghệ thuật đó, kiên cố cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống trong khoảng thời gian dài trong kho tàng văn học dân tộc.
Cảm nhận về hình tượng người đàn bà làng chài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người phụ nữ làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trằn trọc về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng lúc tới với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã trông thấy rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất nhưng mà con người vẫn bỏ qua. Hình ảnh người phụ nữ là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người phụ nữ hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người phụ nữ trạc ngoài 40, một thân hình thân thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng trước hết, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người phụ nữ đó tiếp tục ám ảnh người đọc bằng cụ thể “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự đau xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.
Người phụ nữ đó còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục lúc người chồng hằn học và nhiếc mắng. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho tới lúc gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy bi ai và cũng đầy tình mến thương dành cho những đứa con cho mình.
Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người phụ nữ đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp đó. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và thống khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, ko bi ai một lời.
Và sự cam chịu đó được lặp lại lúc chị được gọi tới hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ đó vẫn “ko rỉ răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng làm cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người phụ nữ lại bối rối và sợ sệt”. Có nhẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.
Tình tiết người phụ nữ vái lạy để đàn ông ko làm điều dại khờ với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi tới tận cùng của nỗi đau, lúc có một trục đường giải thoát thì người phụ nữ đó vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng thống khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?
Lời tâm tình của người phụ nữ về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người phụ nữ yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người phụ nữ yêu con, thương con vô điều kiện, ko yêu cầu bất kỳ điều gì.
Khi chị kể tới cụ thể “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có nhẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường tới hiện giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng mến thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.
Không phải trùng hợp tác giả chỉ gọi nhân vật là “người phụ nữ”, có nhẽ ko phải chỉ một người phụ nữ duy nhất, nhưng mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người phụ nữ có chung tình cảnh ở bất kỳ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung làm cho người đọc phải suy ngẫm, phải trằn trọc về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh nhưng mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người phụ nữ này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người phụ nữ này có nhẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.
Người phụ nữ đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.
Hình ảnh người phụ nữ làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp tới người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.
Nghị luận về hình ảnh người đàn bà làng chài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh nhanh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Nikulin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu ko khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Nguyệt trong “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi trội là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng ý kiến sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì ko thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người phụ nữ hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.
Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người phụ nữ hàng chài được nhà văn giới thiệu là người phụ nữ trạc ngoài 40. Và lúc nhắc đến tới nhân vật này Nguyễn Minh Châu ko gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả nhưng mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người phụ nữ hàng chài”…Việc nhà văn ko đặt tên cho nhân vật của mình ko phải trùng hợp vô tình nhưng mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người phụ nữ thống khổ, xấu số, cần thông cảm sẻ chia nhưng mà thôi.
Người phụ nữ hàng chài mang một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và thống khổ. Có nhẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên đại dương đã đó đi tất cả của chị: sinh lực, thú vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn tới mức nhác, thảm hại còn hiện rõ trong cụ thể mô tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn xuất hiện ngay trong dáng vẻ: ” sợ sệt, bối rối” lúc ở tòa án, “tìm tới một góc tường để ngồi”. Thậm chí lúc Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị mới “rón rén tới ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Có nhẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn tự ti, tự ti và do đó muốn hạn chế sự vướng víu, phiền phức tới khó chịu nhưng mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.
Nguyễn Minh Châu ko chỉ ngừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật nhưng mà ngòi bút thấm đẫm ý thức nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận xấu số của người phụ nữ hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự xấu số nhưng mà người phụ nữ đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc tới bên chiếc xe, người phụ nữ đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá thân thuộc với chị, một sự thân thuộc kinh khủng bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mỏi mệt như một kẻ tội đồ hy vọng một hình phạt ko tránh khỏi. Khi bị đánh mọi rợ, người phụ nữ chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ thống khổ của mình, ko oán thán, ko bất bình, ko tránh né.
Người phụ nữ hàng chài ko chỉ bị hành tội về mặt thể xác, mỏi mệt sau những đêm thức trắng kéo lưới, ko chỉ chịu đựng những đớn đau từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu nhưng mà còn bị giày vò nặng nề về những đớn đau ý thức, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương lúc phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chắp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã trình bày nỗi xót thương cho sự thống khổ cùng cực của người phụ nữ hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quanh quẩn xấu số. Trước năm 1975 mỗi lúc biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mệnh về cuộc sống đỡ đói khổ hơn những nỗi lo cơm áo vẫn tồn tại.
Từ thân phận người phụ nữ hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: trận chiến đấu chống lại nghèo đói u tối và bạo lực còn gian nan trong khoảng thời gian dài hơn trận chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống nghèo đói chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong trận chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong trận chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống nghèo đói u tối.
Nếu độc giả từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy ko ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người phụ nữ rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp nhưng mà người đọc cảm thu được trước hết ở người phụ nữ hàng chài đó là vẻ đẹp thâm thúy từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người phụ nữ hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, nông cạn. Trong lúc Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người phụ nữ hàng chài đã giúp họ trông thấy bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh đàn ông hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, tuyệt vọng cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tiễn của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ nặng nhọc”. Người phụ nữ hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để lèo lái lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, tàn bạo tới đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người phụ nữ trong những cuộc mưu sinh trên đại dương, luôn bất cập, tiềm tàng những hiểm họa, dọa nạt. Người phụ nữ hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mệnh. Chị cho thấy từ ngày cách mệnh về, cách mệnh đã cấp đất cho họ nhưng chẳng người nào ở vì ko thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người lúc trông thấy những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở thành phi thực tiễn. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người phụ nữ hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và ko thể. Sự thâm thúy của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.
Người phụ nữ hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng ko phải vì chị ngu tối. Cũng ko phải vì chị có tội tình gì với chồng nhưng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó ko chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông nhưng mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ phận sự nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những phận sự và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người phụ nữ hàng chài còn mang một tự ti tội tình lúc cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Nếu Đẩu và Phùng đều ngạc nhiên và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành tội thì lúc hiểu được nguyên nhân của thái độ đó, họ càng ngạc nhiên vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người phụ nữ hàng chài.
Tình mẫu tử được người phụ nữ ý thức thâm thúy như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “phụ nữ ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu thâm thúy với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ nhưng mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại khờ với bố nó, người phụ nữ hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị mến thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người phụ nữ thầm lặng đó,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự trầm lặng trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra vẻ ngoài”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người phụ nữ “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình mến thương, sự thơ ngây non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng nhỏ sẽ hành động dại khờ. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đớn đau vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đớn đau vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc tới những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi thú vui nỗi buồn đều xuất phát từ ” vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người phụ nữ hàng chài là bóng vía người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” Tố Hữu.
Người phụ nữ đó đã để lại một ấn tượng thâm thúy để nhiều năm sau tồn tại, lúc nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” hiện giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người phụ nữ bước ra khỏi tấm ảnh…hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, ko phải vì mình nhưng mà là vì những người thân yêu.
Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ tới cử chỉ, lời nói, hành động,…nhân vật người phụ nữ hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu trình bày tư tưởng nhân đạo thâm thúy cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo lắng cho số phận con người xấu số bị tù đày trong nghèo đói, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời trình bày niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.
Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng thâm thúy nhất cho người đọc là người phụ nữ làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ trận chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề xuất của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát xuất hiện một bức tranh cảnh biển không tiền khoáng hậu: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả quang cảnh đó nhìn qua những cái mắt lưới..toàn thể quang cảnh từ đường nét tới ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp đó làm cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ đó lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành tội người phụ nữ bằng những trận đòn thù, người phụ nữ nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng tới ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh đó khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn thể câu chuyện, hầu như người đọc ko hề được biết tới tên gọi của người phụ nữ tội nghiệp đó, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: lúc thì gọi là người phụ nữ hàng chài, lúc lại gọi mụ, lúc thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” tiếng nói tới độ ko thể đặt cho chị một cái tên nhưng mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định đó đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề toan lo.
Hình như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người phụ nữ trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người phụ nữ xấu xí, mỏi mệt dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, thống khổ làm cho dung mạo chị đã xấu giờ trở thành thô kệch.
Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự xấu số trong cuộc đời chị. Hình như mọi sự xấu số của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã theo đuổi chị như định mệnh, suốt từ lúc còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, tới sắm bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, cập kênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành tội: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ lúc nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị ko hề kêu một tiếng, ko chống trả, ko tìm cách chạy trốn nhưng mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người phụ nữ đó nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau tất cả vì những đứa con.
Người phụ nữ đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị ko muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ nhưng mà đánh lúc con lớn. Chị xót xa đớn đau lúc phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và hiện giờ đang xuyên qua tâm hồn người phụ nữ, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’
Người phụ nữ đó là người thâm thúy và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự trầm lặng trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất thân thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, ko kêu van, ko trốn chạy. Khi được đề xuất giúp sức thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lỗi thời”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :”Ông trời sinh ra người phụ nữ là để đẻ con và nuôi con cho tới lúc lớn khôn”. Trong cuộc mưu sinh đầy gay cấn: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để lèo lái lúc phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ” Nữ giới trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ” phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình”.
Có thấu hiểu được tương tự chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người phụ nữ xấu số. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người phụ nữ là ko thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Người phụ nữ đó còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở thành như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh đàn ông cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta ko chấp nhận cho hành vi tội tình của ông nhưng chúng ta phần nào thông cảm cho ông.
Đặc thù ở người phụ nữ là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người phụ nữ đó vẫn gạn lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục đó là bản năng sống sót mãnh liệt và một tấm lòng mến thương đáng thương. Người phụ nữ hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái trầm lặng trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người phụ nữ đó là bóng vía của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Gấp trang truyện lại sức đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người phụ nữ đó rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời trả lời. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên trị giá của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Vẻ đẹp của người đàn bà làng chài
Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng ngòi bút tinh tế, nhẹ nhõm, ẩn chứa nhiều những bài học, những ý kiến có trị giá nhân văn ông đã mang lại cho nền văn học hiện đại một xu thế mới. Không còn viết về những đề tài chiến tranh thảm khốc, những nỗi đau thương mất mát trên chiến trường, hay sự hào hùng hy sinh quả cảm của những con người ở tiền tuyến và hậu phương.
Nguyễn Minh Châu đã đặt trọng tâm vào việc phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, đi sâu vào từng cuộc đời tư nhân với những nỗi đau và những vẻ đẹp lẩn khuất, để cuối cùng mở ra những quan niệm mới mẻ về cuộc đời, khiến chúng ta nhận thức được những điều có lý trong chính những nghịch lý của cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người phụ nữ làng chài mang trong mình những nỗi xấu số, đớn đau. Tuy nhiên từ trong những nỗi đau thương xấu số đó, độc giả lại cảm thu được thật rõ nét những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, cũng như thấu hiểu thông cảm hơn cho nhân vật này, cho những người phụ nữ làm nghề chài lưới ven biển thời kỳ sau giải phóng, trong khi chiến tranh đi qua nhưng những hậu quả để lại trên mảnh đất Việt Nam còn quá lớn và dằng dai.
Trước hết để diễn tả nỗi xấu số của người phụ nữ làng chài, người ta ko thể bỏ qua những cụ thể về ngoại hình của chị. Chẳng còn gì đáng buồn hơn là ông trời đã bắt người phụ nữ đó phải chịu nỗi đau của một người phụ nữ có dung mạo xấu xí, chị vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, thế nhưng một cơn đậu mùa đi qua đã để lại trên mặt chị cơ man nào là những nốt rỗ dày đặc, rồi trở thành cô gái quá lứa lỡ thời, rồi cuối cùng may mắn nên duyên cùng người chồng hiện nay. Thế nhưng đó chẳng phải là cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn gì, bởi lẽ lấy chồng nghèo, chị đã phải hy sinh cả cuộc đời của mình cho những nỗi lo cơm áo gạo tiền, cuối cùng giờ đây chị trở thành một người phụ nữ trung niên, dáng vẻ thô kệch, khuôn mặt tiều tụy, xơ xác, thảm hại vô cùng.
Nhưng xấu số của chị chưa ngừng lại ở đó, nhưng mà nó còn kinh khủng hơn lúc bản thân người phụ nữ này còn là nạn nhân của cảnh bạo hành gia đình mọi rợ. Bước vào đầu câu chuyện, người ta đã ko khỏi xuýt xoa say mê trước cái cảnh một con tàu tiến vào bờ trong ánh mai hồng, tựa như một bức danh họa thời cổ, một cảnh “đắt” trời cho hiếm có. Thế nhưng giữa lúc đó bước xuống khỏi con thuyền như mơ, lại là một cặp vợ chồng, tiều tụy, lam lũ, và kinh khủng hơn đó là cảnh người đàn ông dùng thắt lưng quất liên tục vào người phụ nữ đồng hành vừa đánh vừa nguyền rủa đay nghiến những lời cay độc, còn người phụ nữ thì chỉ biết chịu đựng, ko bỏ chạy, ko la hét phản kháng. Rồi cả nỗi đớn đau của chị lúc phải chứng kiến đứa đàn ông của mình là thằng Phác lao vào đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ. Tất cả những điều đó khiến người ta dễ dàng đặt ra một dấu hỏi lớn, vì sao người phụ nữ đó lại phải nhẫn nhịn và chịu đựng một cách nhu nhược và hèn nhát tới nhường này, trong lúc bản thân chị cũng có được sự bảo vệ của thằng con, sao chị vẫn cứ căng mình để nhận lấy những đòn roi từ người chồng vũ phu, độc ác.
Tuy nhiên, chỉ lúc được Phùng và chánh án Đẩu mời lên khắc phục chuyện ly hôn, chị mở lòng tâm tình những điều mình giấu trong lòng lâu nay nay người ta mới vỡ vạc ra rằng, ko phải việc gì chúng ta cho là có lý cũng hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Với câu chuyện của người phụ nữ làng chài, lúc được Phùng và Đẩu giúp sức làm thủ tục ly hôn, giải thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nghiêm trọng, thì phản ứng của chị ko phải là vui tươi, hạnh phúc, muốn ly hôn tức tốc. Nhưng trái lại, người phụ nữ đó sống chết cầu xin đừng bắt chị ly hôn chồng, có nhẽ đối với nhiều người đó là một hành động ko thể nào “gàn dở” hơn, thế nhưng phải đứng vào vị trí đó của người phụ nữ làng chài chúng ta mới hiểu chị có biết bao nhiêu nỗi lo, nỗi khó xử. Chị ko muốn ly hôn chồng chung quy tất cả cũng là tấm lòng thương con của người mẹ, vì những đứa con còn tuổi ăn tuổi lớn của mình, chị sợ rằng ko có người đàn ông lèo lái lúc phong ba bão táp, thì mình chị làm sao có thể gồng gánh để nuôi từng đó mồm ăn qua những ngày biển động. Lão chồng vũ phu của chị dù có đánh đập, hành tội chị tới cỡ nào, rồi cũng phải trở lại con thuyền này, làm tròn phận sự của một người cha, ra sức lao động để cùng chị nuôi lớn con cái.
Vì con chị chẳng sợ gì đòn roi, đớn đau, miễn sao là những đứa con của chị có thể được ăn no, được lớn lên tử tế, khỏe mạnh, là đã đủ khiến chị hạnh phúc, toại nguyện. Tấm lòng người phụ nữ, người mẹ đó thật bao dung, ấm áp. Không chỉ lo lắng về vật chất, cơm ăn áo mặc, nhưng mà hơn thế nữa chị còn lo lắng cả về mặt ý thức cho những đứa con của mình, chị muốn chúng có bố như bao đứa trẻ khác, có một gia đình đầy đủ vẹn toàn. Và dù bị đánh đập mọi rợ, chị cũng ko muốn để con mình nhìn thấy, chính vì vậy chị luôn xin gã chồng vũ phu có đánh thì rời khỏi thuyền rồi hãy đánh chị. Bởi lẽ chị ko muốn những hình ảnh bạo lực, sự rạn vỡ tình cảm gia đình giữa cha mẹ làm tác động tới tâm hồn của con cái. Về chuyện của thằng Phác, lúc phát hiện nó thù ghét cha mình, thậm chí có những suy nghĩ méo mó, chị đã nhanh chóng gửi nó về nhà ngoại, để tránh việc nó làm ra những chuyện ko thể vãn hồi. Có thế mới thấy được tình mẫu tử thiêng liêng của người phụ nữ làng chài, dẫu trên tấm lưng và tâm hồn dày đặc những vết thương đớn đau, thế nhưng chị vẫn một lòng bảo hộ vẹn toàn cho những đứa con bằng cách của riêng mình. Sống một cuộc đời nhiều sóng gió, vất vả và đau thương như thế nhưng bản thân chị ko mấy lúc nghĩ tới những chuyện đớn đau nhưng mà trái lại chị luôn hướng về những tháng ngày hạnh phúc, gia đình quây quần đầm ấm bên nhau trong những bữa cơm, đối với chị chỉ cần nhìn thấy con cái ăn no là chị cũng đã đủ hạnh phúc. Đối với chị “ông trời sinh ra người phụ nữ là để đẻ con, rồi nuôi con cho tới lúc lớn khôn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình”. Chị thấu hiểu lẽ đó, nên chấp nhận nhẫn nhịn, hy sinh tất cả để củng cố cuộc đời của các con.
Kế bên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, ở người phụ nữ làng chài còn có vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, cam chịu và tấm lòng bao dung thâm thúy. Đối với việc bị đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu, người phụ nữ làng chài ko than trách, ko kết tội, nhưng mà trái lại chị có phần thấu hiểu, thông cảm và bào chữa cho hắn. Chị cho rằng chung quy lại cũng chỉ tại khổ quá, đói kém quá, biết bao nhiêu gánh nặng của một gia đình hơn chục mồm ăn cứ quanh năm suốt tháng đè nặng lên đôi vai của người chồng, khiến hắn mỏi mệt và cần một nơi để trút giận, trút hết những uất ức lâu nay, xong rồi thì hắn lại trở lại lao động, kiếm sống. Chị hồi ức về những ngày trẻ và nhắc lại một cách dịu dàng rằng chồng chị lúc đó “cục tính nhưng hiền lành ko bao giờ đánh đập tôi”. Sau cùng chị tổng kết “giá nhưng mà tôi đẻ ít đi”, một nạn nhân, một người đáng được chở che bảo vệ, cuối cùng lại nhận hết mọi trách nhiệm về mình và biện minh cho người đã gây ra biết bao thống khổ cho bản thân. Có tấm lòng nào nhân hậu và bao dung được hơn thế nữa. Thêm nữa có nhẽ bản thân chị vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị lúc xưa của người chồng, mặc dầu cuộc đời chị có thể ko được trọn vẹn, nhưng ít nhất chị cũng có một gia đình và những đứa con của riêng mình, ko phải chịu sự cô độc tới già.
Kế bên đó, ở người phụ nữ làng chài, lam lũ, ít học, thế nhưng người ta lại trông thấy được vẻ đẹp của một tâm hồn từng trải, thấu tình đạt lý, có một cái nhìn rất đa chiều và thâm thúy về cuộc đời. Chị ko chỉ là một con người biết nhẫn nhịn, biết chịu đựng nhưng mà bản thân chị còn là một người biết phân biệt đúng sai, chị cũng hiểu được rằng hành động của Phùng và Đẩu cốt là để giúp sức chị, thế nhưng phải đứng trong hoàn cảnh của chị người ta mới thấy khó khăn để lựa chọn cỡ nào. Từng lời phân tích, với những phép tắc mộc mạc, giản đơn, giàu đức hy sinh của người phụ nữ làng chài, dường như đã khiến Phùng và Đẩu vỡ ra một điều gì đó. Đó là việc những cái có lý vẫn có thể tồn tại ngay trong lòng những điều nghịch lý nhất, nhưng mà bản thân con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều thì mới trông thấy và thấu hiểu được.
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm xuất sắc phản ánh rất rõ bức tranh xã hội Việt Nam sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tuy chiến tranh đã đi qua thế nhưng hậu quả nó để lại cho con người, cho mảnh đất quê hương thì còn mãi dằng dai, chính cái đói, cái nghèo kiệt quệ đã khiến con người ta khốn khổ, tha hóa. Tuy nhiên ko nhằm mục tiêu nhấn mạnh vào vấn đề này, nhưng mà chủ yếu Nguyễn Minh Châu muốn khai thác vẻ đẹp tâm hồn của những con người nhỏ nhỏ, những khía cạnh đạo đức, từ đó dẫn ra những ý kiến mới về cách nhìn nhận cuộc đời, cách cảm nhận những vẻ đẹp chân chính nhưng mà ở đây là hình ảnh người phụ nữ làng chài với vẻ đẹp của tình mẹ, sự bao dung và thấu hiểu phép tắc ở đời.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài
Trong cuộc sống phức tạp này, sự thực đôi lúc ko phải là điều ngay trước mắt nhưng mà sự thực là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, thực chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người phụ nữ làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ vẻ ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và tới 1985 trong tập ” Bến Quê” tác phẩm là thành phầm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho ” Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì bất thần anh phát xuất hiện cảnh bạo lực gia đình. Với sự xuất hiện người phụ nữ làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.
Người phụ nữ làng chài, ko được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ “Người phụ nữ, bà…” Người phụ nữ chạc 40 tuổi, mang thân hình thân thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người phụ nữ có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mỹ. Trước kia, người phụ nữ này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng ko người nào lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và ý thức, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo túng. Thuyền thì nhỏ, có những lần gia đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống ko thể nào khổ hơn. Người ta nhiều lúc khổ về vật chất, nhưng ý thức đầy đủ cũng là hạnh phúc “một túp lều tranh hai trai tim vàng”. Nhưng chị đâu được thế cuộc sống ý thức của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự giận dữ bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn “Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, ko hề kêu một tiếng, ko tìm cách chống trả, ko tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ ngừng lại lúc thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố” Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người phụ nữ kể trước kia lúc con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau lúc con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi lúc chính là sự ngu dốt.
Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều nhưng mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất mực ko chịu, van van nài ko li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội tình lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am tường lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông lèo lái vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất thông cảm cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng ko bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con nhưng mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có thú vui đó là lúc các con chị được ăn no, mặc ấm.
Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi lúc gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ lúc có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc trưng là thằng phác. Người chị mến thương nhất ” Cái thằng con từ tính khí tới mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành tội mụ” Chị đã khóc lúc phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng mang lại cho đẩu và phùng những bài học quý giá.
Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người phụ nữ xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người phụ nữ trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con am tường lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Qua hình ảnh người phụ nữ trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài ko đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác lạ của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.
Họ ko còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ mến thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương nhân đình, mến thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đập vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan tác dụng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Ngoài ra vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong mộng tưởng, sống ko có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình thời cơ để tới với hạnh phúc thực thụ.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái thực chất bên trong, từ vẻ vẻ ngoài của người phụ nữ trong truyện mến thương chồng con hi sinh cao cả.
Cảm nhận về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời thẩm định của nhà văn Nguyễn Khcửa ải ” Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất rực rỡ mang tên ” Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người phụ nữ hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trằn trọc về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh tự nhiên vô cùng xinh xắn, lộng lẫy nhưng mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công việc ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh đó là những góc khuất nhưng mà con người bỏ qua. Hình ảnh của người phụ nữ hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của tự nhiên nơi đây, Đó là một người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi nhưng mà đặt một ngôi “mụ”, ” người phụ nữ hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người phụ nữ với ” một thân hình thân thuộc của phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt đó. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ đó còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng tới ” tìm tới một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở thành đáng thương tới tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở thành tự ti, tự ti lúc đối diện với con người.
Không chỉ ngừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật thâm thúy, chân thực cả những tính cách con người mụ. Một người phụ nữ, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu tiêu biểu trong xã hội Việt nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người phụ nữ đó, tới một người đàn ông như Phùng cũng không thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người phụ nữ đó vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, nhiếc mắng. Đôi mắt của chị hắt lên một trục đường tối đen ko tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có nhẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh ” ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”.
Những đớn đau về thể xác của chị không thể nào sánh với những nỗi đớn đau, dày vò về ý thức lúc chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương lúc phải chứng kiến những cảnh đớn đau đó. Thằng đàn ông của chị thương mẹ , nhăm nhăm con dao trong tay nhưng người mẹ đó đã “chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị ko muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn nhưng mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đớn đau, buồn tủi vô cùng lúc cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quanh quẩn nghèo nàn. Những tháng ngày ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, túc trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch đó sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều nhưng mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người phụ nữ đó càng trở thành thâm thúy. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn đó nhưng chị đã xin quan tòa rằng ” quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Tới tận cùng nỗi đau, lúc đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại khờ đó. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ vạc và cảm thấy khâm phục người phụ nữ đó. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cục cằn. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí phèo của Nam cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người phụ nữ đó biết rõ rằng : thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để phụ thuộc. Dù cho họ có vũ phu, cục cằn tới nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông nhưng mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ ko có quyền yêu cầu một người đàn ông sang giàu, có học vấn. Trong lúc đường lối của Đảng trước và sau cách mệnh luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân được lợi cuộc sống no ấm, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương nhưng mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ nhưng mà đánh, thú vui của chị thật giản đơn lúc ” vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người phụ nữ làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người phụ nữ trong truyện nhưng mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc lúc nhìn những đứa con có nhẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm ko chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, nghèo đói nhưng mà còn trình bày niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn ko gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
Dẫn chứng về người đàn bà hàng chài
Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiền phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể tới của thi sĩ. Hình ảnh người phụ nữ làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trằn trọc về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ trận chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề xuất của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát xuất hiện một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây , anh đã phát xuất hiện một bức tranh thuyền biển lúc rạng đông đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng trái ngang thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngây ngất sung sướng tới ngạc nhiên, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện lạ mắt và từ tình huống này nhưng mà nhân vật người phụ nữ dần hé lộ số phận và tính cách.
Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người phụ nữ một cách phiếm định. Phcửa ải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người phụ nữ vô danh ở vùng biển này? Người phụ nữ trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.
Người phụ nữ có thân hình “cao lớn với những nét thô kệch”, “rỗ mặt”, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt “mỏi mệt”, “tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Cái vẻ đó gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải đương đầu với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệt. Ngay từ hình thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự đoán về một số phận lắm trái ngang, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người phụ nữ , Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt – nơi ẩn giấu những bí mật của cuộc đời.Ở người phụ nữ xấu xí, rỗ mặt đó có một vài mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời ko bình lặng. Đôi mắt “ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi…đưa cặp mắt nhìn xuống chân’ đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng “nhìn thẳng vào chúng tôi, tuần tự từng người một”, nói những lời đâu phải dễ nghe sau những khoảnh khắc “sợ sệt, bối rối,rón rén tới ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại”. người phụ nữ xuất hiện với khuôn mặt mỏi mệt, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rỗ dằng dịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục lúc nói về đời mình, khuôn mặt đó còn ám ảnh Phùng mãi sau này.
Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những cụ thể ngoại hình nhằm giúp người đọc tưởng tượng được cuộc sống khổ đau, xấu số của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn ý thức. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người phụ nữ đó vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tiềm thức bà luôn lo sợ các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì “bà cảm thấy đớn đau – vừa đớn đau vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã”. Bà đau vì ko tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm tương tự như là để tạ tội với các con vì ko thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống cập kênh. Bà hiểu thâm thúy thiên chức làm mẹ, hiểu được thực chất của chồng. Theo bà, ông ta trở thành thô bạo tương tự là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
Tóm lại, nhân vật người phụ nữ hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời.Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua nhân vật người phụ nữ hàng chài, tác giả muốn gửi tới người đọc những suy ngẫm thâm thúy về cuộc đời, về nghệ thuật. “Chiếc thuyền ngoài xa” mang tới một bài học đúng mực về cách nhìn nhận cuộc sống con người. Đó là cái nhìn đa chiều , ở các cự li không giống nhau, để phát xuất hiện thực chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phcửa ải chăng sau câu chuyện rất buồn này,trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử , sự dũng cảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó ko phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng nhưng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.
Phân tích người đàn bà làng chài trong chiếc thuyền ngoài xa
Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mệnh, sự góp sức đối với quốc gia thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. Nổi trội trong số đó là nhân vật người phụ nữ hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1987.
Người phụ nữ đó là nhân vật chính trong quang cảnh rạng đông ở nơi đầm phá miền Trung – chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. Nếu ko vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc rạng đông” thì có nhẽ anh sẽ ko bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ ko có dịp để vỡ vạc ra nhiều điều từ thực tiễn cuộc sống và nghệ thuật. Người phụ nữ ko được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ đó bằng những đại từ phiếm chỉ như “người phụ nữ”, “mụ”. Phcửa ải chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người phụ nữ làng chài ở các vùng biển khác cũng vô danh, nhỏ nhỏ và có một cuộc đời tầm thường giống như họ? Phcửa ải chăng cũng vì ko có một tên gọi cụ thể nhưng mà hình tượng nhân vật lại có sức nói chung lớn?
Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những cụ thể mô tả ngoại hình tương tự, Nguyễn Minh Châu đã khiến độc giả tưởng tượng ra một người phụ nữ lam lũ, vất vả, chật vật để đương đầu với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy nguy hiểm.
Hình như số phận đã đẩy hết xấu số lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng nhưng mà ko hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế nhưng mà đàn ông trong phố ko người nào lấy chị rồi chị “có mang với một anh đàn ông một nhà hàng chài giữa phá hay tới nhà tôi sắm bả về đan lưới”. Người đàn ông chị lấy lúc đó là một người “cục tính nhưng hiền lành” và ko bao giờ đánh đập vợ. Nhưng có nhẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh nhưng mà anh ta trở thành vũ phu khiến chị thường xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hành động của người chồng khiến vị chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước ko có một người chồng nào như hắn.Tôi chưa hỏi tội của hắn nhưng mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị ko sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu đó đâu”. Chị đã phải chịu đựng bao nhiêu cơn thịnh nộ từ người chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, cập kênh của cuộc sống hàng chài nhưng mà ko bao giờ phản kháng. Chị cam chịu số phận bởi chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.
Người phụ nữ hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn người nào hết. Chị hiểu vì sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở thành nóng tính, bạo lực tới tương tự. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, cập kênh của cuộc sống thường nhật. Cuộc sống đó khổ cực nhường nào lúc “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ông nào lại thờ ơ vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ ko phải vì thù ghét vợ nhưng mà là vì anh ta tuyệt vọng, quẫn bách trước cuộc đời lúc ko thể lo cho gia đình một cuộc sống khá giả. Vì ko có cách nào khác để xả stress những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể lúc nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người phụ nữ nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám phụ nữ ở thuyền đẻ nhiều quá, nhưng mà thuyền lại chật”. Phcửa ải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào ko đớn đau nhưng người phụ nữ hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn tới hành động bạo lực của người chồng nên chị ko hề oán trách, căm giận nhưng mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người phụ nữ với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, ko hề kêu một tiếng, ko chống trả, cũng ko tìm cách chạy trốn”.
Không chỉ vậy, người phụ nữ hàng chài còn là một người mẹ hết lòng thương con và giàu đức hi sinh. Chị muốn các con của chị được đón nhận tình mến thương của cả bố và mẹ. Chị muốn các con được lớn lên trong ko khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con ko phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình. Các con còn nhỏ, chúng chưa thể hiểu được nguyên nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể sẽ căm thù, oán giận bố. Chị xin lên bờ đánh là để tránh cho các con những sự tổn thương về mặt ý thức. Khi thằng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật túi bụi” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người phụ nữ đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị ko muốn Phác căm thù bố và cũng ko muốn nó trở thành bạo lực như bố. Đó là đứa con nhưng mà chị yêu nhất nhưng người phụ nữ phải gửi nó lên rừng với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng nhỏ có thể làm điều gì dại khờ đối với bố nó”.
Người phụ nữ đó nhất quyết ko bỏ chồng vì “đám phụ nữ hàng chài ở thuyền chúng tôi cần thiết người đàn ông để lèo lái lúc phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con nhưng mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con nhưng mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu đó chứ ko tìm cách giải thoát cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ.
Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng đã từ chối lòng tốt đó: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, nặng nhọc…”; “Là bởi vì các chú ko phải là phụ nữ, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người phụ nữ trên một chiếc thuyền ko có đàn ông”. Những lời thổ lộ của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn ko hề đơn giản như cách nhưng mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở ko thể nào khắc phục một cách thấu đáo ở trong thực tiễn. Phùng và Đẩu khuyên người phụ nữ li hôn nhưng họ lại ko hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, ko hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người phụ nữ hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính cách, giữa sự xấu số chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người phụ nữ đó đã mang tới cho tất cả độc giả chúng ta một cách nhìn nhận thực tiễn và bao quát hơn về con người và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ vẻ ngoài rách rưới, cam chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, tư cách trong những nhân vật của mình.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành người lao động vật người phụ nữ hàng chài. Nhân vật này đã giúp độc giả cảm thu được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương nhưng mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người mở đường đầy tài hoa và tinh nhanh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời trằn trọc về nghề và người. Năm 1972 giữa lúc đang viết những thiên sử thi trữ tình lãng mạn, lộng lẫy hào quang, ông đã ghi vào nhật kí “hôm nay chúng ta đang đấu tranh để giành quyền sống cho một dân tộc. Nhưng rồi tới một ngày chúng ta phải đấu tranh để giành quyền sống cho từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn, hạnh phúc hơn. Đó mới chính là trận chiến đấu trong khoảng thời gian dài và khó khăn”. Với niềm suy tư, trằn trọc đó, Nguyễn Minh Châu đã thay đổi từ cảm hứng sử thi trữ tình lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường. Sự thay đổi đó để lại dấu ấn rõ nét trong các nhân vật nữ của ông nhưng mà tiêu biểu là nhân người phụ nữ hàng chài trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Nếu nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” là nhân vật hoàn mĩ, lý tưởng từ cái tên tới đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, từng sợi tóc nhấp nhánh tới ánh trăng. Và lúc nào cũng hiện lên trong cái nhìn mê muội cảm phục của Lãm thì nhân vật người phụ nữ trong “Chiếc thuyền ngoài xa” lại ko tên, ko chút nhan sắc, chị có thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt tái nhợt đầy những nốt rỗ. Mỗi lần chị khóc nước mắt đong đầy trong những nốt rỗ đó, bộ quần áo bạc phếch vá víu lúc nào cũng ướt sũng. Những nét chân dung như thế đã hé mở một cuộc đời khổ đau bất trắc, chị thuộc hiện thân của mảnh đời khốn cùng tối tăm vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. Đó là người phụ nữ lao động lam lũ vất vả ở làng chài, cả nhà sống chen chúc trên một chiếc thuyền chật hẹp. Thế nhưng trong cuộc đời đen tối đó lại ẩn chứa những vẻ đẹp đáng trân trọng.
Người phụ nữ có sức chịu đựng vô bờ bến, lúc mô tả vẻ ngoài của nhân vật Nguyễn Minh Châu chú ý tới cụ thể “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng vì kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đây là cụ thể đáng giá để nhấn mạnh sức cam chịu, tầm thường lúc mỏi mệt người ta thường sinh ra cáu gắt, đó thế nhưng người phụ nữ vẫn cam chịu những cơn phẫn nộ của người chồng. Khi biết mình phải chịu đòn người phụ nữ có những hành động rất ý nghĩa: đưa cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân, quay lại phía con thuyền để xác nhận rằng ko còn đứa con nào ở đó.
Chị còn là người hiểu thâm thúy lẽ đời: hiểu rõ hoàn cảnh của mình, hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người. Chị hiểu rõ nỗi tuyệt vọng của người chồng, hiểu chồng là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Chị nói về việc chồng trở thành vũ phu là do đám phụ nữ ở thuyền đẻ quá nhiều nhưng mà thuyền lại chật”. Chị còn là người mẹ bao dung đầy lòng vị tha, giàu đức hy sinh. Chị chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng chứ nhất quyết ko chịu bỏ chồng về đàn con. Nỗi thống khổ lớn nhất của chị là để đàn con bị tổn thương.
Khi biết thằng Phác chứng kiến cảnh bố nó hành tội mẹ nó, đây là nỗi đau giày xé trong lòng chị còn đau hơn nhiều những trận đánh, hành động ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, “vái lấy vái để” cho chúng ta thấy điều đó. Người phụ nữ đó còn rất giàu tình mến thương. Chị mến thương thông cảm cho lão chồng đã hành tội chị suốt đời vì chị biết chồng chị chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Hành động chị lạy con để giữ cho nó ko phải hối lỗi vì một lần lỗi đạo để cầu xin thằng nhỏ tha thứ vì mẹ ko thể chở che cho tâm hồn thơ ngây non nớt của nó ko tổn thương trong hoàn cảnh u tối, khốn cùng.
Chị còn là người chắt chiu hạnh phúc, chị chấp nhận những đắng cay riêng mình để có niềm hạnh phúc bình dị nhỏ nhoi đó là những lúc đàn con của chị được ăn no, vợ chồng con cái hòa thuận với nhau. Chị còn rất giàu lòng tự trọng, chị có cách xử sự rất tự trọng: xin lão chồng đưa lên bờ nhưng mà đánh để tránh các con phải nhìn thấy, lúc biết Phùng và đàn ông chứng kiến cảnh mình bị đánh chị vô cùng đớn đau, xấu hổ, nhục nhã.
Thân thể bị giày xéo, phẩm chất bị xúc phạm nhưng sau mỗi trận đòn chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng để đuổi theo lão đàn ông. Đó là sự nhẫn nhục của người có tư cách tự trọng. Chính vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ hàng chài đã khiến Phùng và Đẩu trông thấy nhiều điều: cuộc sống ko đơn giản một chiều, ko thể khắc phục vấn đề cuộc sống chấp thuận tận tâm, ý thức sách vở.
Với nghệ thuật mô tả tâm lý nhân vật rực rỡ, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được hình ảnh nhân vật người phụ nữ với đường nét thô kệch nhưng lại mang một vẻ đẹp rất đời, rất thực, ẩn sâu và khuất lấp giữa kiếp người nhọc nhằn, lam lũ. Một vẻ đẹp khiến lòng người quặn đau.
Viết đoạn văn khoảng 200 chữ nêu cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài
Người phụ nữ luôn là người cam chịu, luôn là người hi sinh và mang những tiết hạnh tuyệt vời. Nhưng ở đây, ở nước Việt Nam, vai trò của một người phụ nữ trong gia đình càng quan trọng và cao cả tới nhường nào. Nguyễn Minh Châu, một trong những cây bút tiền phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, đã tái tạo hình ảnh một người mẹ, một người phụ nữ đầy tấm lòng yêu thương nhân đình trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa. Truyện ngắn với phong cách tự sự, ngôn từ dung dị đời thường kể lại chuyến đi thực tiễn của một người nghệ sĩ, nhưng mà qua đó đưa ra những chiêm nghiệm thâm thúy về cuộc đời dưới góc nhìn của nhân vật.
Chiếc Thuyền Ngoài Xa đã tái tạo hình ảnh của một gia đình chuyên sống bằng nghề lưới vó. Phùng là nhân vật chứng kiến toàn thể câu chuyện về họ, anh đã thấy một cảnh tượng khó quên, bạo lực gia đình, anh thấy một người phụ nữ đầy cam chịu, anh cũng thấy một gia đình kỳ lạ nhưng họ lại là người cho Phùng cái nhìn và bài học thấm thía về cuộc đời, về con người.
Người phụ nữ làng chài đó hiện lên trong tác phẩm với cách khắc họa rõ ràng của nhà văn. Người phụ nữ ko tên trạc ngoài bốn mươi với “thân hình thân thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn” và hiển nhiên còn mang những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, “khuôn mặt mỏi mệt sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dương như đang buồn ngủ”. Phcửa ải chăng đó là hình ảnh, là dấu ấn để nói rõ ràng cái khó khăn, vất vả của những con người lao động. Cái nhọc nhằn đó đã cướp đi tuổi xuân và sức khỏe của người phụ nữ. Sự vất vả trong việc mưu sinh đã đè nặng lên đôi vai của chồng mụ, khiến người phụ nữ đó phải chịu những trận đòn, sự tức giận của lão chồng.
Biết làm sao được, phụ nữ là người phải nhẫn nhịn, phải cam chịu một tí, người phụ nữ làng chài này cũng thế thôi. Mụ biết mình sắp bị đánh bởi mụ xin chồng hãy đánh mình ở trên bờ để các con ko nhìn thấy. Sự cam chịu và nhẫn nhục của mụ trình bày qua sự bất lực, “người phụ nữ đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có nhẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Nhìn xuống để ko thấy những trận đòi sắp trút lên người mình, mụ mỏi mệt ko màng tới gì cả, chỉ cần các con ko thấy cảnh bố nó đánh mẹ là được rồi. Đó là cái nhìn xa xôi, cái nhìn chịu đựng. Người phụ nữ bị chiếc thắt lưng quật túi bụi cũng chỉ có “một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, ko hề kêu một tiếng, ko chống trả, cũng ko tìm cách chạy trốn”. Lạ lùng, khó hiểu là những suy nghĩ cứ hiện hữu trong tâm tư của Phùng lúc thấy cảnh đang diễn ra trước mắt.
Bởi Phùng đâu hiểu đó là sự chịu đựng của một người mẹ giàu đức hi sinh, đó là cái nhịn nhục vì gia đình vì con cái. Mụ biết mình sắp bị đánh kia nhưng mà, biết đau, biết buồn kia chứ, nhưng vì con được ăn no, vì để các con ko nghĩ xấu và đối xử tệ với bố, người phụ nữ chọn hi sinh làm người bị thương. Sự hi sinh đáng ngưỡng mộ và sự chịu đựng tới đáng thương. Để có thể đứng yên đấy nhưng mà chịu những cơn đau đó là vì mụ nghĩ về các con, mụ “ngước mắt ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền” các con và gia đình mụ ở. Người phụ nữ dù khổ đau đấy nhưng vẫn tin vào một ngày khác nhưng mà lúc đó gia đình của mụ đầy ắp tiếng cười, các con được ăn ngon là mụ lấy lại ý chí. Mụ gửi thằng Phác lên ở với ông ngoại của nó để thằng nhỏ được sung sướng hơn lúc ở với bố mẹ trên chiếc thuyền mỏng manh, thiếu thốn này. Mụ là người phụ nữ tuy xấu xí về ngoại hình nhưng tình yêu của mụ dành cho con đã xóa nhòa tất cả. Khi thằng Phác chạy tới giật lấy cái dây thắt lưng nhưng mà bố nó đánh mụ, mụ mới biết thế nào là đớn đau, là nhục nhã. Hình như cái sự cam chịu tận cùng của người phụ nữ đã vỡ òa lúc con mình xuất hiện. “Miệng mếu máo gọi, người phụ nữ ngồi xẹp xuống trước mặt thằng nhỏ, chắp tay vái lấy vái để, rồi ôm chầm lấy” con. Mụ vái để xóa đi cái tội tình nhưng mà mụ nghĩ mình đã gây ra với thằng nhỏ Phác con mụ. Mụ vốn dĩ ko muốn nó hiểu lầm bố, mụ ko muốn con thấy mình bị đánh rồi lại gây những đớn đau trong tâm hồn con trẻ, mặc dù mụ chính là nạn nhân đi chăng nữa.
Người phụ nữ khó hiểu đó đã làm cho Phùng trông thấy những trị giá trong cuộc đời chấp thuận tự trọng, sự hiểu chuyện tới thấu tình đạt lý của mụ. Người phụ nữ đó hiểu chuyện, tự trọng vô cùng mặc dù mụ là người học vấn ko cao đi chăng nữa. Sở dĩ mụ xin chồng mình đánh mụ ở trên bờ là vì mụ muốn giữ lại sự tôn nghiêm cuối cùng của bản thân đối với các con. Do vậy nên cái cảm giác tủi nhục, phẫn uất và đớn đau đã lan tràn trong người mụ lúc thằng Phác con mụ chạy tới. Mụ cũng xấu hổ trước Phùng, nhân chứng của ngày hôm đó. Nhưng rồi cái lí do nhưng mà mụ chịu đựng tương tự lại được phơi bày qua cuộc gặp với Đẩu, chánh án tòa án huyện và Phùng. “Đám phụ nữ hàng chài ở thuyền chúng tôi cần thiết người đàn ông để lèo lái lúc phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con”. Lý do mụ làm vậy vì mụ biết chồng mình ko phải là người xấu. Hành động vũ phu của chồng là vì sự túng thiếu và sức ép, bởi lão chồng mụ từng là “một anh đàn ông cục tính nhưng hiền lành lắm”. Hơn nữa, “phụ nữ ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ ko thể sống cho mình như ở trên đất được”. Lý do tưởng dường như vô lý nhưng lại cho thấy một con người khác của người phụ nữ này. Làm gì có người nào chịu đựng dễ dàng tương tự, làm gì có người phụ nữ phải chịu đựng tới gàn dở như thế. Không, tất cả là do người phụ nữ này hiểu chuyện tới thấu tình đạt lý, là do bà đó thương và thông cảm cho chồng của mình. Và còn bởi vì bà mến thương con hơn cả mạng sống nữa.
Tóm lại, cái sự thấu hiểu và câu chuyện nhưng mà Nguyễn Minh Châu tái tạo và khắc họa nên người phụ nữ làng chài này vô cùng rực rỡ. Nhưng qua đó đã làm cho độc giả cũng như Phùng tỉnh ngộ được nhiều chân lý mới về cuộc đời. Ta sẽ ko hiểu thế nào là khổ đau, là thật tâm, là vị tha của một người, một việc nào đó nếu ta ko xúc tiếp với họ. Những điều tưởng chừng vô lý nhưng lại trở thành hợp tình hợp pháp lúc ta nỗ lực và xúc tiếp với nó. Hơn thế nữa, trị giá của một con người có cao hay thấp ko phụ thuộc vào tri thức nhưng mà là tư cách. Nguyễn Minh Châu thông qua nhân vật này đã đưa ra những chân lý của cuộc đời khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Video Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa
.
Đánh Giá hướng dẫn phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
10
100
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài xa 14 bài phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài rất đầy đủ chi tiết
User Rating: Be the first one !