Đề bài: Anh/chị hãy Phân tích đoạn Thề nguyền trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bài văn mẫu Phân tích đoạn Thề nguyền
I. Dàn ý Phân tích đoạn Thề nguyền (Chuẩn)
1. Mở bài
– Sơ lược về Truyện Kiều.
– Giới thiệu đoạn tríchThề nguyền.
2. Thân bài
a. Tâm trạng của Thúy Kiều khi tìm gặp Kim Trọng để thề nguyền:
– Kiều quay lại tìm Kim Trọng lần hai, chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh.
– Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời.
– Khung cảnh thiên nhiên rất thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp:
+ “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”: Ánh trăng thơ mộng trữ tình, gợi tả khung cảnh yêu đương nồng nàn.
+ Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn => Thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng Kiều, tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách
+ “Tiếng sen đã động giấc hòe”: Thể hiện phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua “tiếng sen”.
+ “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý, thể hiện lý tưởng và khát vọng của Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp
+ “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”: Tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng.
– “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa/Bây giờ rõ mặt đôi ta/Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”: Kiều bộc lộ nỗi nhớ mong tình quân, bên cạnh đó là nỗi lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì.
d. Cảnh thề nguyền:
– Không gian là nhà Kim Trọng, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình.
– Ánh trăng biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy Kiều và Kim Trọng, trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái sắc.
– “đài sen”, “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng.
– Cả hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời.
– “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía.
– Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng đến tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ “đồng” trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ.
=> Tỏ rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
3. Kết bài
Khái quát giá trị đoạn trích
II. Bài văn mẫu Phân tích đoạn Thề nguyền
1. Phân tích đoạn trích Thề nguyền, mẫu số 1 (Chuẩn)
Truyện Kiều là một tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du mà đến tận ngày nay người ta vẫn ngớt lời khen ngợi và tìm hiểu về nó. Tác phẩm viết về Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại có số phận truân chuyên, éo le và bi kịch, bị đẩy đưa bởi xã hội phong kiến đương thời tàn ác, bất công. Nguyễn Du muốn thông qua cuộc đời Kiều để mà lên án cái xã hội ấy và thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, công lý, người phụ nữ được sống đúng với bản năng, tình yêu và tự do của mình. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn đẹp nhất Truyện Kiều, khi miêu tả cảnh Kiều cùng tình yêu đầu của mình – Kim Trọng thề nguyền, hẹn ước tình yêu dưới trăng.
Đoạn trích Thề nguyền thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều – Gặp gỡ và đính ước, từ câu thơ thứ 431 đến 452. Đây là phần tiếp nối sau cuộc chơi xuân của chị em Kiều và sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Kim Trọng ở hội “đạp thanh” ấy. Hai con người tài sắc đã phải lòng nhau gần như ngay lập tức và trong họ đã nảy nở một thứ tình yêu sâu đậm. Về phần Kim Trọng, từ ngày gặp gỡ, chàng không thể quên được hình ảnh của nàng Kiều, vậy nên chàng đã tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Kiều để ngày đêm có thể nhìn thấy nàng. Về phần Kiều, nàng cũng như Kim Trọng, ngày đêm mong nhớ tình lang. Một ngày nhân lúc cả nhà đi chơi, nàng quyết định tìm sang phòng Kim Trọng để cùng nhau hàn huyên cho thỏa nỗi nhớ mong. Chiều tà, nàng trở về nhà, nhưng cả nhà chưa ai về, nàng đã quyết định quay lại gặp Kim Trọng và tại đây, hai người đã cùng nhau hẹn ước và thề nguyền dưới ánh trăng sáng.
Khi viết đoạn trích này, Nguyễn Du đã bộc lộ cho người đọc thấy được tư tưởng tình yêu tự do của mình, khi ông để cho Kiều là người tìm đến Kim Trọng chứ không phải ngược lại. Ông muốn người phụ nữ được thoát ra khỏi cái vòng lễ giáo phong kiến luẩn quẩn để tìm đến với tình yêu đích thực của mình. Và ông đã thể hiện điều đó trong bước chân dứt khoát của Kiều khi tìm đến với Kim Trọng:
“Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu”
Những người phụ nữ xưa thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, của những điều luật như tam tòng tứ đức, khiến họ không thể thể hiện được tài năng cũng như không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Vậy nên càng không thể có chuyện trai gái chưa vợ chưa chồng lại có thể lén lút gặp gỡ nhau mà bày tỏ tình yêu, nếu làm vậy, người con gái sẽ mang tội thất tiết, thiếu lễ giáo, … Ấy vậy mà ở đây, Nguyễn Du đã để Kiều làm tất cả điều ấy. Giữa đêm khuya, nàng băng lối vườn khuya để tìm đến với tình yêu của mình, tự tay quyết định tình yêu và cuộc đời của mình. Những từ ngữ như “vội”, “xăm xăm” đều diễn tả sự vội vã, sự nhanh chóng, khẩn trưởng của Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Nàng “băng lối vườn khuya một mình” mà chẳng hề sợ hãi, phải chăng, tình yêu đã tiếp cho nàng thêm sức mạnh? Sự tĩnh mịch của đêm khuya chẳng hề làm nàng chùn bước, mà ngược lại, tình yêu bỏng cháy trong con tim nàng đang xé bỏ đi lớp rào chắn của định kiến phong kiến để đưa bước chân nàng tới với tình yêu của mình!
Phân tích đoạn trích Thề nguyền để thấy được không khí thề nguyền thiêng liêng của Kim – Kiều
Lễ giáo phong kiến quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, nữ nhi cũng không phải người có thể quyết định tình yêu, hôn nhân của mình, ấy vậy mà Kiều lại khác. Nàng phá bỏ tất thảy mọi rào cản để “băng lối” sang nhà Kim Trọng, thật quá táo bạo, thật quá liều lĩnh! Một người con gái thông minh như Kiều lại luôn được dạy lễ giáo từ nhỏ sao có thể làm điều đó, phải chăng, tình yêu mãnh liệt đã đưa lối khiến nàng tìm đến thư phòng của chàng Kim để bày tỏ tình yêu của mình?
Mặt trăng soi tỏ từng cành cây bên vườn vắng còn giai nhân thì đang mau lẹ bước chân để tìm tới nhà tình lang còn chàng Kim thì đang mơ mang bên hương án dưới ngọn đèn học thiu thiu:
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê”
Chàng trai hào hoa phong nhã ấy đang dựa đầu vào hương án mà thiu thiu ngủ “dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê”, thì chợt bước chân của nàng thơ ghé tới, “tiếng sen” nhẹ nhàng tiến lại gần chàng. Không gian ở đây bao trùm bởi ánh trăng, ánh trăng rẽ lối để Kiều tìm đến Kim Trọng, trăng càng “xế” thì nàng càng gần với người mình yêu thương. Những hình ảnh ước lệ như “tiếng sen”, “hoa lê”, “giấc hòe”, “giấc mộng đêm xuân” như càng góp phần làm nên cái tâm trạng hư hư thực thực của Kim Trọng. Chàng chẳng rõ đang mơ hay đang tỉnh, “mơ màng” không biết hình ảnh của Kiều có là thực chăng, hay là giấc mộng của chàng khi mong nhớ về nàng?
“Tiếng sen sẽ động giấc hè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
Sự xuất hiện đột ngột lần thứ hai của Kiều khiến cho Kim Trọng tưởng đâu nàng là nữ thần của đỉnh Vu Giáp xuất hiện trong giấc mơ đêm hè của chàng. Sự xuất hiện ấy đột ngột quá đỗi khiến chàng không thể tin được đó là sự thật cho đến khi “miệng hoa” cất lời:
“Nàng rằng: ‘Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Nếu như sự xuất hiện của nàng là một sự đột ngột quá đỗi với chàng thì lời nói và hành động của nàng càng khiến cho Kim Trọng bất ngờ hơn nữa. Một hành động mà chắc chỉ có Kiều mới dám táo bạo và liều lĩnh như thế “vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”. Vì tình yêu nên nàng sẵn sàng vượt lên tất cả mọi định kiến về lễ giáo phong kiến để tìm đến với mối tình của mình. Giữa trong “đêm trường” khuya khoắt ấy, giữa ánh trăng vằng vặc ấy, không chỉ là thời gian, không gian của vũ trụ mà còn là không gian, thời gian trong tình yêu của nàng. Những người đang yêu bao giờ cũng cảm thấy thời gian bên nhau thật ngắn ngủi, còn thời gian xa nhau ngỡ như “đêm trường” tối tăm và xa cách. Nàng muốn được gần Kim Trọng thêm nữa. Hai chữ “hoa” trong một câu thơ mà nàng dùng, vốn là từ để chỉ người con gái đẹp thì ở đây lại phiếm chỉ tình yêu son sắt của nàng dành cho Kim Trọng. Giờ đây khi đã gần bên nhau, nàng muốn ước hẹn cùng Kim Trọng để chứng minh cho tình yêu của mình. Bởi sau khi bên mộ Đạm Tiên trở về, nàng luôn mang trong mình nỗi lo âu, thấp thỏm, nàng sợ rằng tình yêu này cũng chỉ như giấc “chiêm bao”.
Sự xuất hiện đột ngột chẳng báo trước của Kiều cùng những lời nói của nàng khiến cho Kim Trọng vô cùng kinh ngạc, bởi nó đã vượt qua tất cả mọi lễ giáo thông thường. Thế nhưng, chàng hiểu tất cả, bởi tình yêu của chàng dành cho Kiều cũng đã vô cùng sâu đậm, gặp lại tình nhân ở đây thật không lời nào tả xiết. Chàng rước nàng vào hương án với sự vội vàng, không biết mơ và thực nữa:
“Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương”
Chàng thêm sáp thêm hương cho không gian thêm phần rực rỡ, cũng là để mừng cho khoảnh khắc hạnh phúc sum vầy của đôi lứa yêu nhau. Và cũng tại không gian này, chàng và nàng cùng “thảo” một tờ giấy hẹn thề, đính ước cùng nhau, ước hẹn trăm năm bạc đầu. Cắt một lọn tóc nhỏ, rồi chia làm đôi làm tín vật đính ước của đôi trai tài gái sắc. Tất cả những vật nhỏ bé ấy giờ thành những tín vật trang trọng nhất, đẹp đẽ nhất chứng minh tình yêu của hai người. Và trong không gian ấy, không thể thiếu ánh trăng soi tỏ trên đầu, ánh trăng ấy là chứng nhân cho tình yêu của họ:
“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
Có lẽ khi bất cứ ai nhắc đến tình yêu của Kiều và Kim Trọng đều nhớ đến hình ảnh của đôi trai gái cùng ngồi thề nguyền dưới ánh trăng. Hình ảnh đó đẹp rực rỡ, đẹp như mối tình trong sáng, vượt trên mọi lễ nghi của họ. Hai con người giờ đây đã chung một chữ thề “một lời song song” cùng nhau hẹn ước, cùng nhau thề hẹn trăm năm bạc đầu.
Nguyễn Du quả là một nhà thơ tài hoa bởi chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng ông đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh của đôi trai tài gái sắc cùng nhau thề nguyền. Bức tranh ấy đẹp lung linh với ánh trăng làm nền soi tỏ. Để cuối cùng khi kết lại, hai người đã cùng nhau tạc lên “một chữ đồng”: đồng tâm, đồng lòng đến chết. Hai con người ấy đã thề nguyền suốt kiếp chung tình với đối phương, ghi tạc vào trong tim, mãi mãi không bao giờ quên. Tất cả đã chứng tỏ một thứ tình yêu son sắt, thủy chung đến vô cùng, tình yêu của họ vượt lên trên tất cả những định kiến lễ giáo phong kiến, vượt trên cả không gian và thời gian, nguyện lòng theo đuổi một thứ tình yêu đến suốt đời, suốt kiếp.
Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay và lãng mạn nhất trong Truyện Kiều. Bởi ở đây không chỉ chứa đựng cảnh thề nguyền hẹn ước của đôi lứa Kiều – Kim Trọng và còn thể hiện cả quan điểm tình yêu tự do, hôn nhân và hạnh phúc tự do – một quan điểm vô cùng tiến bộ của Nguyễn Du thời ấy. Dù rằng sau này, Kiều phải đành lòng trao lại mối tình sâu nặng ấy cho Thúy Vân để em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng những khung cảnh đẹp đẽ giữa họ, lời thề ước giữa họ thì vĩnh viễn tồn tại như ánh trăng hôm đó. Qua đoạn trích này, ta cũng thấy được tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng những hình ảnh ước lệ đẹp tuyệt vời, khả năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng đặc sắc của ông.
2. Phân tích đoạn Thề nguyền, mẫu số 2 (Chuẩn)
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của nền văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân dân Việt Nam suốt mấy trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân văn, tính nhân bản như lòng thương cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn của người phụ nữ, bên cạnh đó nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến tàn ác, chèn ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là Thúy Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp hồng nhan bạc mệnh. Trong phần thứ nhất – Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết Thanh minh, Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc, đang tuổi thanh xuân phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự định ước chung thân với Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn Thề nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả của Nguyễn Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam nữ theo đuổi tình yêu một cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng qua nhà Kim Trọng ngay trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc phải an phận thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu, nếu có thì người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu điều tiếng nặng nề hơn là lăng loàn, thất tiết,… Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành cho nhau. Đặc biệt với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo tiếng gọi của tình yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một thời dấy lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo hay cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn thông cảm và trân trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Bài văn Phân tích đoạn Thề nguyền, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi vừa trở về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh. Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời. Bên cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. Đó là cảnh “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những thứ ánh sáng dịu dàng, rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa thưa chiếu lên người giai nhân đang rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn, không chỉ thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng Kiều, mà nó còn thể hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách, càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng băng vườn tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn sách, chập chờn trong giấc mộng. Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như “Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua “tiếng sen”. Lại diễn tả cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không có thật và thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình ảnh “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng. Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều dưới ánh trăng thanh lại cứ ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với việc nhớ mong người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại đây Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi thường tình dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống vắng khi xa nhau, lại sợ “đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví “hoa” chính là tình yêu, nàng đã “vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”. Thế nhưng bên cạnh nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an vô cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm thấy an tâm hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người thường gặp mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình. Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô cùng thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói tản mát trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng. Cả hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa đầy ắp thư tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng đến tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ “đồng” trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tỏ rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Qua đoạn trích Thề nguyền, ta đã thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về sự tự do theo đuôi tình yêu của trai gái, thấy được cá tính mạnh mẽ của nàng Kiều, bộc lộ thông qua việc lén tìm Kim Trọng rồi tự định chung thân. Cuối cùng đoạn trích cũng bộc lộ cả vẻ đẹp thuần khiết, thiêng liêng và sâu nặng giữa hai trái tim son trẻ, và ước mơ muôn đời của con người được tự do chạy theo tình yêu, khao khát được hạnh phúc con người.
3. Phân tích đoạn Thề nguyền, mẫu số 3:
Tình yêu có rất nhiều giai đoạn với các cung bậc cảm xúc khác nhau.Khi cảm thấy có sự đồng điệu giữa hai tâm hồn, những người yêu nhau sẽ thề nguyền để hẹn ước đời đời gắn bó, luôn bên cạnh nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn.Thúy Kiều và Kim Trọng cũng vậy, họ đã có một lễ thề nguyền trong không gian đầy thơ mộng.Có lẽ trong văn chương trung đại Việt Nam chưa có một cuộc thề nguyền nào lãng mạn đến thế.
Mở đầu đoạn trích “Thề nguyền” là sự chủ động đến táo bạo của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng nhân cơ hội cha mẹ và các em sang bên ngoại chưa về nhà:
“Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu”.
Khi con tim đã rung động vì tình yêu thì ước muốn luôn được ở bên cạnh người mình yêu cũng là điều dễ hiểu. Các động từ “vội”,”xăm xăm”, “băng lối” diễn tả trạng thái vội vàng, nhanh chóng, khẩn trương của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. “Vườn khuya” tĩnh mịch, thanh vắng không khiến nàng chùn bước mà ngược lại, tình yêu nồng cháy nơi con tim Thúy Kiều đã khiến nàng xé bỏ rào cản, bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa trong xã hội đương thời. Xã hội xưa quan niệm “Nam nữ thụ thụ bất thân”, trong tình yêu, người phụ nữ không có quyền chủ động quyết định hạnh phúc của mình vậy mà Thúy Kiều lại chủ động “băng lối” sang nhà chàng Kim vào buổi chiều tà. Như vậy chẳng phải là quá táo bạo hay sao? Nàng khao khát một tình yêu đến từ chính trái tim của hai người, một tình yêu tự do và mãnh liệt nên đã thề nguyền cùng Kim Trọng. Mặt trăng đã lên và chiếu những tia sáng qua lá cây tạo nên một không gian huyền ảo. Chàng Kim lúc này đang mơ màng dưới ngọn đèn học hiu hắt:
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
Chàng thư sinh hiếu học ấy đang “thiu thiu”, chập chờn bước vào giấc ngủ và ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê không biết tiếng bước chân nhẹ nhàng của người mình yêu đang tiến đến gần là mơ hay thực. Thời gian càng về khuya cũng là lúc người đẹp lại gần Kim Trọng. Các hình ảnh ước lệ như “giấc hòe”, “hoa lê”, “bóng trăng đã xế”, “giấc mộng đêm xuân” đã góp phần thể hiện tâm trạng “bâng khuâng” giữa hai bờ hư – thực của Kim Trọng. Tiếng bước chân của Kiều đã làm xao động giấc hòe của chàng thư sinh. Thúy Kiều xuất hiện như thần nữ xinh đẹp của núi Vu Giáp.Vẻ đẹp của bóng trăng và bóng nàng Thúy Kiều như quyện hòa với nhau làm một.Cảnh vật, không gian lãng mạn như thế thật thích hợp cho một cuộc thề nguyền. Chính sự xuất hiện ấy khiến Kim Trọng không khỏi có sự nghi ngờ việc Kiều sang nhà mình là sự thật hay chỉ là giấc mơ.
Những bài văn Phân tích đoạn Thề nguyền hay nhất
Mong ước được thề nguyền, sánh đôi và trọn nghĩa thủy chung với Kim Trọng nên Thúy Kiều đã có hành động đầy táo bạo:
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Lí do ấy thật chính đáng và thuyết phục. Vì tình yêu mà nàng chủ động “trổ đường tìm hoa”, vì tình yêu chân chính, tự do mà nàng vượt khỏi những quy định của Nho giáo. “Khoảng vắng đêm trường” không phải thời gian, không gian thực mà là thời gian, không gian tâm lí.Tâm trạng của những người đang yêu luôn ngập tràn nỗi nhớ nhung, vừa mới gặp nhau mà Thúy Kiều đã cảm thấy như xa Kim Trọng một thời gian rất dài.Hơn nữa, Kim Trọng thuê trọ ở gần nhà Thúy Kiều nhưng như thế vẫn còn chưa đủ.Nàng muốn gần chàng Kim hơn nữa để tình yêu lứa đôi thêm phần gắn kết.Trong lĩnh vực văn chương, từ “hoa” thường để chỉ người con gái tài sắc nhưng trong câu thơ “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa” từ “hoa” ngầm chỉ tình yêu son sắt, tha thiết với chàng Kim. Từ khi gặp mộ nàng Đạm Tiên, Thúy Kiều luôn có dự cảm chẳng lành về cuộc đời của mình và mối tình của mình với Kim Trọng. Dự cảm về sự chia lìa, dang dở luôn thường trực trong tâm trí của người thiếu nữ có vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” ấy. Nhân lúc còn “rõ mặt đôi ta”, Thúy Kiều muốn hẹn ước cùng Kim Trọng bởi nàng lo sợ sau này sẽ không còn cơ hội nữa.
Thấu hiểu mong ước của người mình yêu, Kim Trọng đã “rước” Kiều vào thư phòng của mình để thực hiện lễ thề nguyền:
“Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương”.
Ánh sáng của “trướng huỳnh” hiu hắt quá nên Kim Trọng đã lấy thêm nến sáp vào cái đài hình hoa sen để có thêm ánh sáng và chàng cũng thắp thêm hương để lò hương thêm thơm. Khung cảnh ấy vừa gợi sự thiêng liêng lại vừa gợi sự thơ mộng, lãng mạn. Đó cũng là không gian của cuộc thề nguyền diễn ra nhanh chóng, vội vàng nhưng cũng đầy đủ tất cả các lễ nghi cần có:
“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.
Trước tiên, Kim Trọng và Thúy Kiều lấy tờ giấy cùng nhau viết lời thề nguyện, rồi sau đó cắt tóc bằng con dao vàng và chia phần tóc ấy làm hai để đặt lên chiếc bàn dùng để xếp sách thật trang trọng. Vầng trăng sáng “vằng vặc” giữa trời đêm là nhân chứng cho cuộc thề nguyền ấy. Tình yêu của hai người có vầng trăng chứng giám. Lời thề chung thủy của Thúy Kiều và Kim Trọng là lời hẹn thề sẽ đồng tâm, đồng lòng, đồng cam cộng khổ để cùng nhau xây đắp một hạnh phúc dài lâu, vững bền. Nguyện ước trăm năm sẽ gắn bó bên nhau, lời thề trong đêm trăng sẽ giúp tình yêu của họ thêm gắn kết. Cuộc thề nguyền diễn ra mà không có mẹ cha, bạn bè thân thiết làm chứng mà chỉ có hai người hẹn thề với nhau dưới vầng trăng.
Đoạn trích đã thể hiện quan niệm về tình yêu tự do, tự nguyện của đại thi hào Nguyễn Du. Ông trân trọng mối tình Thúy Kiều – Kim Trọng đồng thời cũng xót thương cho mối tình ấy vì vừa được nhen nhóm đã gặp phải sóng gió, trắc trở. Cũng vì lời thề này mà Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân để Vân thay mình ở bên cạnh Kim Trọng trong tâm trạng đầy đau xót.Lời thề nguyền đã góp phần tạo nên niềm tin tưởng vào tình yêu của hai nhân vật và cũng là của tác giả.Qua đó, bạn đọc thấy được tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều – Kim Trọng và thấy được tài năng ngôn ngữ, cách sử dụng các hình ảnh ước lệ của Nguyễn Du.
—————–HẾT——————
Đoạn trích Thề nguyền là tác phẩm nổi bật trong ngữ văn lớp 10, được trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài bài làm văn Phân tích đoạn Thề nguyền, học sinh và giáo viên tham khảo các bài làm văn mẫu cùng những tài liệu hữu ích như Soạn bài Thề nguyền (trích Truyện Kiều), soạn văn lớp 10 để ứng dụng cho quá trình học tập của mình dễ dàng nhất. Hi vọng với những kiến thức này sẽ giúp cho các em học sinh củng cố kiến thức và làm văn đạt kết quả tốt hơn.
Bản quyền bài viết thuộc trường Trường THPT Phạm Hồng Thái. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường THPT Phạm Hồng Thái (thpt-phamhongthai.edu.vn)